| Hotline: 0983.970.780

Dịch bệnh tôm hùm đã được khống chế

Thứ Ba 03/04/2012 , 10:20 (GMT+7)

Hiện tại, tình hình dịch bệnh trên tôm hùm thương phẩm của ngư dân xã Nhơn Hải, TP. Quy Nhơn đã được khống chế...

Ngày 2/4, bà Nguyễn Thị Liên – Phó trưởng Phòng thủy sản, Sở NN-PTNT Bình Định cho biết: hiện tại, tình hình dịch bệnh trên tôm hùm thương phẩm của ngư dân xã Nhơn Hải, TP. Quy Nhơn đã được khống chế, chỉ còn vài lồng bè tôm nuôi chết rải rác đang được tiếp tục theo dõi phòng chống dịch.

Tại thôn Hải Giang, xã Nhơn Hải, 80 hộ ngư dân đã thả nuôi tôm hùm thịt thương phẩm tổng số 33 bè/532 lồng, với sản lượng tôm nuôi 40.060 con. Tuy nhiên, từ cuối tháng 11/2011 đến nay, tôm hùm nuôi thương phẩm chết rải rác, đến tháng 1 và tháng 2/2012, dịch bệnh đã xảy ra trên diện rộng. Nguyên nhân ban đầu được xác định là do các hộ nuôi mật độ dày trên diện tích hẹp với 532 lồng/20 ha mặt nước và 8 – 10 con/m2, cao gấp 2 lần so với quy định làm mất vệ sinh môi trường, nhiễm khuẩn vùng nuôi do thức ăn dư thừa gây nên, kết hợp với thời tiết biển động, lạnh… đã gây bệnh dẫn đến tôm chết xảy ra 253/532 lồng, với số lượng tôm chết đến nay là 2.152 con gây thiệt hại về kinh tế cho người nuôi tôm.

Trước tình hình dịch bệnh như vậy, Sở NN-PTNT Bình Định đã chỉ đạo Chi cục Thú y tiến hành lấy 5 mẫu tôm còn sống gửi vào Viện Nuôi trồng thủy sản 3 Nha Trang xét nghiệm, đồng thời mời chuyên gia khảo sát thực tế, kiểm tra vùng nuôi, tôm bị bệnh. Kết quả xét nghiệm cho thấy tôm nuôi bị bệnh đen mang và đỏ thân. Phòng Kinh tế TP. Quy Nhơn phối hợp với Chi cục Nuôi trồng thủy sản, Chi cục Thú y tổ chức tập huấn và hướng dẫn các hộ nuôi tôm áp dụng các biện pháp phòng, trị cho tôm hùm, hỗ trợ 1.640 kg chlorin cho các hộ nuôi thực hiện tẩy rửa, sát trùng lồng nuôi và môi trường vùng nuôi.

Theo Phòng Kinh tế TP. Quy Nhơn, qua tập huấn hướng dẫn phòng trị bệnh và hỗ trợ thuốc chlorin, đến nay số tôm bị bệnh dần dần hồi phục và ổn định.

Xem thêm
Việt Nam chưa đủ thông tin đánh giá tác động của dự án Funan Techo

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng khẳng định Việt Nam chưa đủ thông tin để có thể đánh giá tác động của dự án Funan Techo.

Bắc Kạn cần hướng đến sản xuất nông, lâm nghiệp bền vững

FAO tại Việt Nam đánh giá, các hợp tác xã, tổ hợp tác tại tỉnh Bắc Kạn đã cải thiện năng lực tổ chức sản xuất, có nhiều mô hình hiệu quả, thân thiện với môi trường.

Du khách ở TP.HCM sắp được trải nghiệm xe điện

TP.HCM Sẽ có 70 xe điện được đưa vào phục vụ khách. Thời gian hoạt động từ 6-24 giờ hằng ngày, thí điểm trong 2 năm (từ quý II/2024 đến hết năm 2025).

Lạng Sơn rà soát lại các gói thầu liên quan đến công ty Thuận An

Công ty Cổ phần Tập đoàn Thuận An tham gia thi công một phần của dự án nâng cấp Quốc lộ 4B, kết nối liên vùng giữa tỉnh Lạng Sơn - Quảng Ninh.

Bình luận mới nhất

Trong bài này, tác giả (sau đây xưng là Nattoi) để cập chủ yếu 03 vấn đề, trong đó chủ yếu tập trung cho giải quyết vấn đề số 1, hai vấn đề còn lại chỉ được nhắc đến: Một: Phương pháp thiết kế điều tiết lũ hiện hành chưa đưa thông số mực nước an toàn ở hạ du vào tính toán nên yêu cầu phòng chống lũ cho hạ du chưa được đảm bảo và không có tiêu chí để xác định hiệu quả vận hành giảm lũ. Vấn đề này đã được Nattoi giải quyết cả về mặt lý thuyết và thực hành (trình bày ở mục 3.4). Hai: Tiêu chí xác định MNCNTL, MNTNĐL không được công khai, minh bạch, làm cho việc kiến nghị điều chỉnh hạ thấp 2 mực nước đối với các hồ chứa thủy điện nhằm tăng dung tích trống phòng lũ là điều bất khả. Về vấn đề này (trình bày tại Mục 3.1), Nattoi chưa nêu cụ thể phương án giải quyết là để tập trung nội dung vào vấn đề số 1 như đã nêu, nhưng hướng giải quyết là đã có. Ba: Vấn đề bán con trâu mà tiếc sợi dây thừng: Thiết kế xây dựng đập, hồ chứa nước được tính toán an toàn ổn định lật, trượt đến mực nước lớn nhất thiết kế và kiểm tra với mực nước lớn nhất kiểm tra, cho phép giữ mực nước hồ không vượt quá mực nước lớn nhất kiểm tra nhưng lại chỉ cho phép sử dụng dung tích trống phòng lũ đến mực nước dâng bình thường là sự lãng phí ghê gớm trong đầu tư xây dựng và quản lý an toàn đập, hồ chứa nước. Hướng giải quyết vấn đề số 3 (trình bày tại Mục 3.2) vốn là tự nhiên đã có nhưng không được sử dụng vì không nghĩ đến giảm lũ cho hạ du.
+ xem thêm