| Hotline: 0983.970.780

Gừng đá Bắc Kạn

Thứ Hai 06/04/2015 , 06:15 (GMT+7)

Gừng đá, một loài cây hoang dại thường mọc tự nhiên trong các vùng rừng nguyên sinh hoặc trên các vách núi đá của các tỉnh vùng núi cao phía Bắc, Nam Trung bộ và Tây Nguyên có độ cao từ 500 -700 m so với mực nước biển.

Gừng đá có nhiều công dụng, dùng làm gia vị chế biến nhiều món ăn truyền thống của bà con các dân tộc vùng cao, vừa là nguồn dược liệu, vừa là cây trồng có thể trồng thuần loài, trồng xen cho hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, do bị khai thác kiệt quệ, gừng đá bị thoái hóa nghiêm trọng và có nguy cơ tuyệt chủng.

Với mục tiêu bảo tồn nguồn gen quý để mở rộng SX, Viện Di truyền nông nghiệp, Sở KH-CN Bắc Kạn đã triển khai thành công dự án “Nghiên cứu, đánh giá, nhân nhanh giống và kỹ thuật trồng giống gừng đá Bắc Kạn” và hoàn thiện các quy trình kỹ thuật (nhân giống bằng phương pháp nuôi cấy mô tế bào, trồng, chăm sóc, thu hoạch và bảo quản sản phẩm).

Nguồn gốc, đặc điểm thực vật

- Gừng đá (Zingiber purpureum Roscoe) còn có các tên khác như gừng núi, gừng gió, gừng tía, riềng gió, ngải xanh, ngải mặt trời… tùy theo sự xuất hiện của chúng ở từng địa phương. Riêng ở Bắc Kạn, gừng đá thường mọc tự nhiên ở trong các cánh rừng nguyên sinh có lẫn nhiều sỏi đá, trên các hốc đá nên bà con gọi là gừng đá.

- Gừng đá mọc tự nhiên ở một số tỉnh vùng Tây Bắc như Bắc Kạn, Cao Bằng, Hà Giang... ; miền Trung như Quảng Nam, Khánh Hòa; Tây Nguyên như Gia Lai, Đăk Lăk… Gừng đá ưa những vùng đất giàu mùn, tơi xốp, dễ thoát nước ở các bờ suối nơi ẩm mát, dưới tán rừng già, ở độ cao từ 500 - 700 m so với mực nước biển, cây thường phát triển theo cụm (5 ,6 thân).

- Gừng đá là cây thân thảo, cao khoảng 1 m, lá hình lưỡi mác, màu xanh đậm. Củ nhỏ cỡ ngón tay, có nhiều đốt, khi đã già vỏ củ màu nâu, ruột màu vàng, có mùi thơm đặc trưng không lẫn với các giống gừng khác (hơi hắc mùi bọ xít).

- Giá trị sử dụng: Được dùng chủ yếu làm gia vị chế biến một số món ăn truyền thống của bà con dân tộc như thịt ướp, thịt nướng, thịt hầm. Gừng đá có tính kháng sinh cao nên được dùng chữa các bệnh viêm nhiễm, xương khớp, đau bụng, chữa ung thư…

- Giá trị kinh tế: Theo tính toán sơ bộ, với 1 ha gừng đá trồng xen dưới tán rừng (mật độ từ 5.000 - 8.000 cây), sau 2 năm cho thu hoạch khoảng 700 - 1.000 kg củ, bán với giá bình quân 500.000 đ/kg như hiện nay bà con có thể thu về từ 350 - 500 triệu đồng. Như vậy bình quân mỗi năm 1 ha gừng đá sẽ cho thu nhập từ 125 - 250 triệu đồng. Đây là điều kiện lý tưởng để bà con các dân tộc các tỉnh miền núi cao, nhất là với các hộ có tham gia chăm sóc, quản lý bảo vệ rừng theo giao khoán có điều kiện tăng thêm thu nhập, góp phần xóa đói, giảm nghèo tiến tới làm giàu.

Kỹ thuật canh tác

- Thời vụ trồng thích hợp với các tỉnh vùng núi phía Bắc từ cuối tháng 2 đết hất tháng 3 DL là thời gian ít nắng, có đủ độ ẩm nhờ mưa xuân nên cây nhanh bén rễ, hồi sinh, tỷ lệ cây sống cao.

- Chọn và làm đất: Chọn những vùng đất có nhiều mùn, tơi xốp, có độ cao từ 500 - 700 m so với mực nước biển, có độ che bóng khoảng 50 - 60% để trồng gừng đá. Đất được cày bừa kỹ (nếu là đất bằng) hoặc cuốc xới (nếu là đất dốc hoặc trồng xen, làm sạch cỏ dại, xử lý thuốc trừ mối, kiến, dế.

- Chọn đúng giống để trồng nhằm tránh bị phân ly, thoái hóa làm giảm năng suất và chất lượng, tốt nhất nên mua cây giống được nhân giống bằng phương pháp nuối cấy mô tế bào của Sở KH-CN Bắc Kạn hoặc Viện Di truyền nông nghiệp để trồng. Cây giống được cấy trong bầu có kích thước từ 7 - 12 cm, có 3 - 5 lá, thân mập, khỏe mạnh, không sâu bệnh.

- Khoảng cách trồng: Nếu trồng thuần loài với diện tích tập trung, có thể trồng hàng cách nhau 60 cm, cây cách nhau 45 - 50 cm. Trong trường hợp trồng xen, có thể trồng thưa hơn tùy theo khoảng cách trống giữa các cây trồng chính (cây ăn quả, cây lâm nghiệp hay cây rừng) hoặc có thể trồng xen vào các hốc đá 1 - 2 cây/hốc. Xé bỏ túi bầu trước khi trồng để không làm đứt rễ, trồng chặt gốc, tưới nhẹ đủ ẩm để cây nhanh bén rễ.

- Phân bón: Lượng phân bón tính cho 1 ha gồm 2 tấn phân chuồng hoặc hữu cơ sinh học + 300 kg supe lân + 200 kg urê + 250 kg kali clorua. Bón lót toàn bộ phân chuồng, phân vi sinh và phân lân trước khi trồng. Lượng đạm và kali dùng bón thúc chia làm 3 lần (sau trồng 1 tháng, sau trồng 3 tháng và sau trồng 6 tháng).

- Phòng trừ sâu bệnh hại: Gừng đá ít bị sâu bệnh hại, tuy nhiên cần chúy ý phòng trừ các loại sâu xám, ốc sên thường phá hại vào thời kỳ cây con

- Thu hoạch và bảo quản: Cây trồng sau 2 năm là có thể thu hoạch được khi thấy củ đã già, vỏ củ đã chuyển sang màu nâu, phần lá và thân cây bắt đầu úa vàng và khô dần. Dùng cuốc bới nhẹ, cắt nhặt lấy phần củ, rửa sạch đem bảo quản trong điều kiện khô mát (lâu dài để làm giống cho vụ sau) hoặc thái mỏng, phơi khô, đựng trong bao bì có lót nilon bảo quản nơi khô ráo để dùng dần hoặc xuất bán.

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cao điểm phòng trừ sâu cuốn lá nhỏ hại lúa xuân vào dịp nghỉ lễ 30/4

Theo Trung tâm BVTV phía Bắc, thời điểm phòng trừ tập trung sâu cuốn lá nhỏ từ 25/4 - 5/5. Sau khi phun lần 1, nếu mật độ còn cao tổ chức phun trừ lần 2.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm