| Hotline: 0983.970.780

Hà Nội phát triển chăn nuôi hàng hóa

Thứ Tư 21/03/2012 , 10:11 (GMT+7)

Sau khi sáp nhập, Hà Nội có điều kiện tự nhiên rất thích hợp hình thành các vùng chăn nuôi trọng điểm...

Sau khi sáp nhập, Hà Nội có điều kiện tự nhiên rất thích hợp hình thành các vùng chăn nuôi trọng điểm, phù hợp với từng loại vật nuôi theo chủ trương phát triển chăn nuôi theo vùng, xã trọng điểm, chăn nuôi quy mô lớn ngoài khu dân cư.

Năm 2011 chăn nuôi Hà Nội đạt được một số thành tựu đáng kể. Về phát triển chăn nuôi bò sữa: Đã xây dựng được 8 xã chăn nuôi bò sữa trọng điểm. Tại các xã này, số lượng bò sữa, sản lượng sữa và quy mô chăn nuôi bò sữa tăng nhanh trong năm 2011. Số lượng bò sữa tại thời điểm tháng 11/2010 là 6.782 con, đến cùng kỳ năm 2011 là 7.582 con chiếm 78,44% tổng số bò sữa toàn thành phố, tăng 800 con (tốc độ tăng đàn 11,8%/năm).

Số hộ chăn nuôi bò sữa tăng từ 2.275 hộ lên 2.351 hộ (tăng 76 hộ) quy mô chăn nuôi bò sữa tăng từ 2,98 con/hộ lên 3,22 con/hộ; Sản lượng sữa tăng từ 46.000 kg/ngày lên 65.760 kg/ngày, chiếm 79,22% tổng sản lượng sữa của Hà Nội. Trong khi số lượng bò sữa ngoài vùng chăn nuôi bò sữa trọng điểm trên địa bàn TP giảm thì bò sữa ở trong vùng tăng mạnh về cả chất lượng và số lượng. Như vậy, giá trị từ bò và sữa tăng thêm năm 2011 là 115 tỷ đồng. 

Phát triển đàn bò sữa ở ngoại thành Hà Nội

Về phát triển chăn nuôi bò thịt: Đối với chăn nuôi bò thịt, năm 2011 đã xây dựng được 5 xã trọng điểm là xã Minh Châu- Ba Vì, Đồng Tâm- Mỹ Đức, Đông Yên- Quốc Oai, Minh Trí- Sóc Sơn, Tự Lập- Mê Linh với tổng số lượng bò là 7.787 con/2.678hộ, quy mô bình quân là 2,94 con/hộ.

Nổi bật là xã Minh Châu với 2.156 con bò/452 hộ nuôi (số hộ chăn nuôi bò chiếm 39,64% tổng số hộ dân toàn xã), xã Minh Trí với 2.356 con/1.048 hộ (số hộ chăn nuôi bò chiếm 34% tổng số hộ dân toàn xã). Tại những xã này chất lượng giống bò được cải thiện rõ rệt mang lại lợi ích kinh tế cao, hơn nữa đây là những vùng SX giống bò hướng thịt cao sản cung cấp cho Hà Nội và khu vực lân cận.

Trong năm 2011, số bê lai F1 Brahman và Droughtmaster sinh ra ở 5 xã trọng điểm là 1.069 con, tính riêng giá trị của giống bê lai này cao hơn với giống lai Sind trên địa bàn Hà Nội từ 1,5- 2,5 triệu đồng thì giá trị từ bê sinh ra tăng lên từ 1,6- 2,5 tỷ đồng/năm; số bê lai của 2 giống trên SX ra năm 2011 trên địa bàn toàn TP là 22.000 con thì giá trị từ bê tăng lên từ 35- 40 tỷ đồng.

Về phát triển chăn nuôi lợn: Trong năm 2011, Trung tâm Phát triển chăn nuôi gia súc lớn Hà Nội đã tham mưu cho Sở NN- PTNT, các vùng chăn nuôi lợn trọng điểm như: Vùng chăn nuôi lợn xã Cổ Đông, Kim Sơn (thị xã Sơn Tây) với 100 trại/141.090 con (4.230 lợn nái/20 trại, 136.860 lợn thịt/80 trại); Vùng chăn nuôi lợn xã Vạn Thái, xã Sơn Công (huyện Ứng Hòa) với 33 trại/8.761 con (1.321 lợn nái/16 trại, 7.440 lợn thịt/17 trại); Vùng chăn nuôi lợn xã Phúc Lâm, Hợp Thanh (huyện Mỹ Đức) với 19 trại/1.770 con (370 lợn nái/10 trại, 1.400 lợn thịt/9 trại)...

Đặc biệt có nhiều khu chăn nuôi lợn tập trung ngoài khu dân cư đang phát triển ổn định, có hiệu quả như khu chăn nuôi xã Tân Ước (huyện Thanh Oai) có 12 hộ với diện tích 27 ha; khu chăn nuôi tập trung tại Ứng Hòa có 9 hộ/32 ha; khu chăn nuôi tập trung xã Cấn Hữu (huyện Quốc Oai) có 11hộ/34 ha...

Theo số liệu khảo sát tháng 11/2010, số trại chăn nuôi ngoài khu dân cư trên địa bàn TP là 472 trại, nuôi 155.000 con; trong đó 197 trại lợn nái/ 11.865 con, quy mô bình quân 60,2 con/trại và 275 trại lợn thịt/143.135 con, quy mô 520,4 con/trại. Đến hết năm 2011 tổng số trại chăn nuôi ngoài khu dân cư là 722 trại với tổng số đầu lợn nuôi là 284.633 con, trong đó số trại lợn nái là 274 trại/21.490 con, quy mô bình quân đạt 78,4 con/trại và 448 trại lợn thịt/263.143 con, quy mô bình quân đạt 587,3 con/trại.

Như vậy nếu chỉ tính riêng về lợn nái thì số trại tăng lên là 77 trại và số lợn nái tăng lên là 9.625 con, với hệ số lứa đẻ là 2,2 lứa/nái/năm và bình quân 10 con/lứa thì riêng số lớn nái tăng lên đã cung cấp cho thị trường khoảng trên 200 ngàn con, tương đương giá trị tăng thêm ước đạt 240 tỷ/năm. Nếu tính hệ số chăn nuôi lợn thịt của các trại bình quân là 2 lần/năm thì trong năm 2011 sản lượng thịt hơi xuất chuồng của các trại chăn nuôi này đạt trên 47 ngàn tấn (263.143 con x 2 x 90 kg/con = 47.365.740 kg) và tổng thu ước đạt 2.820 tỷ đồng.

Từ hướng chăn nuôi trên sẽ là cơ sở để tổ chức liên kết theo chuỗi sản xuất thực phẩm an toàn từ người chăn nuôi đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm, xây dựng thương hiệu sản phẩm chăn nuôi, chứng minh và truy xuất được nguồn gốc sản phẩm tiêu thụ trên thị trường, góp phần thúc đẩy chăn nuôi phát triển ổn định bền vững... 

Về phát triển chăn nuôi gia cầm: Vùng phát triển chăn nuôi gia cầm tại các huyện Ba Vì, Chương Mỹ, Đông Anh, Quốc Oai, Sơn Tây... Trung tâm Phát triển chăn nuôi Hà Nội đã khảo sát, làm việc với Phòng Kinh tế các huyện, Đảng ủy, UBND các xã và xác định phát triển chăn nuôi gia cầm ở 11 xã trọng điểm với tổng số trại là 548 trại/2.700.064 con gồm: Vùng chăn nuôi gia cầm xã Ba Trại, Cẩm Lĩnh (huyện Ba Vì) với 209 trại/896.900 gà thịt; Vùng chăn nuôi gia cầm xã Cổ Đông (thị xã Sơn Tây) với 92 trại/727.000 con, trong đó 3 trại/18.000 gà đẻ, 89 trại/709.000 gà thịt; Vùng chăn nuôi gia cầm xã Cấn Hữu (huyện Quốc Oai) với 28 trại/116.500 con, trong đó 26 trại/105.500 gà đẻ, 2 trại/11.000 gà thịt; Vùng chăn nuôi gia cầm xã Thanh Bình, Lam Điền, Tốt Động, Tiên Phương, Đại Yên (huyện Chương Mỹ) với 185 trại/857.864 con, trong đó 59 trại/304.864 gà đẻ, 126 trại/553.000 gà thịt; Vùng chăn nuôi gia cầm xã Đại Mạch, Tiên Dương (huyện Đông Anh) với 34 trại/101.800 gà đẻ.

Theo số liệu khảo sát tháng 11/2010, số trại chăn nuôi gia cầm ngoài khu dân cư là 546 trại nuôi 2.883.000 con thì đến hết năm 2011, số hộ chăn nuôi ngoài khu dân cư là 1.153 trại, tổng số lượng gia cầm là 4.630.469 con chiếm 25,4% tổng số gia cầm toàn TP, trong đó số hộ nuôi gà đẻ 415 hộ/1.389.669 con, hộ nuôi gà thịt 738 hộ/3.240.800 con. Nếu tính hệ số chăn nuôi gà thịt bình quân 4 lứa/năm thì sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 33 ngàn tấn/năm, tổng nguồn thu ước đạt 1.155 tỷ đồng/năm. Sản lượng trứng đạt 305 triệu quả/năm, tổng nguồn thu ước đạt 450 tỷ đồng/năm.

Như vậy, chủ trương phát triển chăn nuôi theo vùng, xã trọng điểm và chăn nuôi quy mô lớn ngoài khu dân cư của Hà Nội là hoàn toàn đúng đắn và bước đầu đã có kết quả tốt đẹp.

(*): Tác giả hiện là GĐ Trung tâm Phát triển chăn nuôi Hà Nội

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cao điểm phòng trừ sâu cuốn lá nhỏ hại lúa xuân vào dịp nghỉ lễ 30/4

Theo Trung tâm BVTV phía Bắc, thời điểm phòng trừ tập trung sâu cuốn lá nhỏ từ 25/4 - 5/5. Sau khi phun lần 1, nếu mật độ còn cao tổ chức phun trừ lần 2.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm