... Nhưng gặp rồi thì “càng quen thuộc nết, càng dan díu tình”, nhất là sau khi được chiêm ngưỡng tấm thân “trong ngọc trắng ngà” với cái “toà thiên nhiên” mỹ lệ qua bức trướng hồng lúc nàng “ tẩm hoa” ( tắm), thì chàng quyết tâm lấy nàng làm vợ, dù chàng đã có vợ chính thức là con gái một vị “ thiên quan trủng tể”. Nhưng muốn lấy được nàng đâu có dễ ? Vì lúc đó nàng đang là “ cây tiền” của mụ Tú, đời nào mụ chịu nhả ra. Biết thế, chàng Thúc bèn thực hiện một kế hoạch rất khôn ngoan. Trước tiên, chàng giấu nàng một nơi, rồi bước hai, nhờ người nhắn với mụ Tú rằng chàng đã “chiến, hoà sắp sẵn hai bài”. Chiến, tức là nếu mụ đòi người, thì chàng sẽ tố cáo mụ bắt ép con gái nhà lành làm đĩ, nhân chứng chính là nàng Kiều. Còn hoà, là nếu mụ im đi, thì chàng sẽ hoàn lại số “vàng ngoài bốn trăm” mà mụ đã bỏ ra mua nàng, muốn cách nào chàng sẽ “ chiều” cách ấy. Tất nhiên là mụ Tú đành chọn cách thứ hai. Vì người đã trốn rồi. Nếu làm ầm ĩ lên, thì với cái tính “ trăm nghìn đổ một trận cười như không”, chàng Thúc sẽ chẳng khó khăn gì khi đưa mụ đến cửa quan. Và tội ép buộc con gái nhà lành làm đĩ là tội rất nặng dưới chế độ phong kiến. Kẻ phạm tội có thể bị tử hình…
Chiến thắng mụ trùm lầu xanh, nhưng chưa kịp hưởng hạnh phúc thì sóng gió lại nổi lên. Biết chuyện, cha chàng đã “ nổi giận bời bời”,chửi chàng một trận lút mặt, còn với nàng, thì nhà tỷ phú lập tức “dạy cho má phấn lại về lầu xanh”. Thấy con trai lăn lộn kêu khóc, van xin và doạ sẽ… tự tử (Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi), cơn giận của cụ càng như lửa tưới thêm dầu, cụ lập tức đến cửa quan tố cáo nàng (Sốt gan, ông mới cáo quỳ cửa công)…
Cứ như ngày nay, thì nàng Kiều phải bị truy cứu theo điều 147 BLHS vì “vi phạm chế độ một vợ một chồng” mà hình phạt cao nhất lên tới 3 năm tù. Thời phong kiến, cả ở ta và ở Tàu đều không có điều luật đó. Xã hội cho phép đàn ông có nhiều vợ (Trên trời có vẩy tê tê/ Có anh bẩy vợ chẳng chê vợ nào – ca dao). Nhưng chế độ đó lại có một điều luật hết sức quái đản: đã làm đĩ thì phải chung thân làm đĩ, không được phép hoàn lương, không được lấy chồng là con nhà tử tế… nàng Kiều bị đóng gông giải đến công đường. Ta hãy xem diễn biến phiên toà :
Với cái “ mặt sắt đen sì” ( Bao Công mặt cũng đen), viên quan xử án gợi cho người ta cảm giác đó là một người rất vô tư, khách quan, chỉ biết có pháp luật. Vừa trông thấy bị cáo, y đã nổi giận (Lập nghiêm trước hãy ra uy nặng lời), chửi Thúc Sinh lêu lổng, ăn chơi phá của, kể tội nàng làm đĩ mà không trót đời, lại còn quyến rũ con nhà tử tế... dứt lời, y tuyên án ngay: Một là cứ phép gia hình/ Hai là lại cứ lầu xanh phó về. Và khi thấy nàng thà chịu chết chứ nhất định không chịu tiếp tục làm kiếp “người ngựa” thì y lập tức hạ lệnh hành hình nàng bằng cách dùng ba cây roi chập lại để đánh (Ba cây chập lại một cành mẫu đơn).Trước thảm cảnh ấy, chàng Thúc đành chỉ biết giở món võ…khóc, bất chấp đấy là nơi công đường nghiêm ngặt (Khóc rằng oan khốc vì ta/ Có nghe lời trước chẳng đà luỵ sau…). Không ngờ lời kêu khóc của chàng lại khiến cho phiên toà chuyển sang một hướng khác. Nghe chàng kêu gào, viên quan xử án có chút động tâm bèn gọi lại hỏi han. Thế là chàng được dịp dãi bày. Rằng trước khi nhận lời về sống cùng tôi, nàng đã đắn đo, căn vặn đủ điều, rằng vợ tôi, cha tôi liệu có bao dung được nàng không ? tôi có che chở được nàng không ? nếu không có sự bao dung, che chở đó, thì việc nàng phải chết trước cửa công là điều chắc chắn . Lúc đó, vì quá yêu nàng, tôi đã nói phét rằng “Đường xa chớ ngại Ngô Lào / Trăm điều hãy cứ trông vào một ta”, nhưng nàng vẫn chưa tin, vì đã biết tôi là thằng vô dụng. Biết, nhưng nàng vẫn quyết dấn thân, thà bị vợ tôi dầy vò, bị cha tôi hành hạ, bị chết trước công đường còn hơn sống kiếp lầu xanh. (Từ xưa, nàng đã biết thân có rầy…), nào ngờ điều nàng tiên đoán đã trở thành sự thực…Nên nhớ ngày xưa không có trường dạy chuyên về pháp luật. Quan chức mọi ngành đều xuất thân từ một kỳ thi duy nhất là thi thơ phú, văn chương. Viên quan xử án này cũng không ngoại lệ, và chắc chắn y là người rất giỏi thơ phú. Vì thế khi nghe họ Thúc kể lể rằng tuy là gái lầu xanh, nhưng nàng cũng là người có học (Thưa rằng chút phận bọt bèo/ Theo đòi vả cũng ít nhiều bút nghiên) thì y lập tức nổi máu văn chương, gương mặt sắt đen sì của y dịu ngay lại bởi một nụ cười khoái trá, y biến luôn công đường thành thi đàn, biến phiên toà thành cuộc thử tài, y ra đầu đề cho nàng làm thơ (Cười rằng:đã thế thì nên/ Mộc già hãy thử một phen trình nghề). Mộc già tức là cái gông. Là tội nhân, trên cổ đang đeo gông, vừa bị roi vọt tơi bời mà lại phải làm thơ về cái gông. Cái đầu đề ấy của viên quan vừa tinh nghịch lại vừa tai ác. Chẳng cần nói ta cũng hiểu tâm trạng của nàng Kiều lúc đó là thế nào rồi. Thi hào Nguyễn Du không ghi lại bài thơ “vịnh mộc già” ấy để hậu thế thưởng thức tài thơ của nàng, chỉ biết rằng nàng đã làm rất nhanh, và khi đưa lên, thì bài thơ được viên quan xử án khen nức nở là "Khen rằng giá đáng thịnh Đường- tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân”. Phải phục lắm thì người ta mới khen thơ nhau là sánh ngang với thơ Đường thời đang thịnh. Từ chỗ khen thơ, y khen cả người, khen nàng là giai nhân, khen Thúc Sinh là tài tử, khen hai người thật… đẹp đôi (Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn). Bài thơ về cái gông làm phiên toà quay ngược 180 độ. Viên quan đã quẳng ráo từ pháp luật cho đến công đường , chức vụ…vào một xó để đứng về phía nàng, y dỗ dành Thúc ông: cô gái này thật tuyệt vời. Thôi ông đừng chia rẽ đôi trẻ nữa, hãy dẹp cơn giận lại, nhận cô ta làm con dâu đi (Dâu con trong đạo gia đình/ Thôi thì dẹp nỗi bất bình là xong). Táo bạo hơn, y còn làm một việc “ vô tiền khoáng hậu” mà nếu chuyện đến tai nhà vua, thì y chắc chắn bay đầu : y ra lệnh xuất của công sắm lễ cưới, tự mình đứng làm chủ hôn, tổ chức hôn lễ cho nàng Kiều lấy Thúc Sinh giữa thanh thiên bạch nhật, khiến cho hàng phố một phen lác mắt trước cảnh “Kiệu hoa cất gió, đuốc hồng điểm sao”…
Nếu như ở phiên toà trên, nàng Kiều phải tham gia tố tụng với tư cách bị cáo, thì ở phiên toà thứ hai, nàng vừa là chủ toạ lại vừa là bị hại. Sau khi được Từ Hải cứu khỏi lầu xanh của họ Bạc, và sau khi Từ đã “Huyện thành đạp đổ năm toà cõi Nam”, trở thành một vị Đại Vương, thì nàng trở thành một phu nhân nắm trong tay quyền sinh quyền sát. Căm hận những kẻ trước đây đã chà đạp, hành hạ vợ mình, Từ phái quân “Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Truy” bắt hết chúng, từ Bạc Hạnh, Bạc Bà, Tú Bà, Sở Khanh, ưng, khuyển, Mã Giám Sinh cho đến Hoạn Thư…về, giao cho vợ toàn quyền xét xử. Đây là một toà án binh, được mở giữa quân doanh với sự uy nghiêm khủng khiếp, với khí thế ngút trời (Bác đồng chật đất, tinh kỳ rợp sân) mà Hoạn Thư được xác định là “chính danh thủ phạm”. Chẳng cần nhắc lại, chắc bạn đọc cũng nhớ được con người này, vì ghen tuông ( máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen), đã hành hạ nàng bằng những thủ đoạn tàn ác, thâm độc, tinh vi đến thế nào, khiến nàng căm hận tận xương tuỷ. Thế nên trước khi mụ được dẫn vào, nàng đã hạ lệnh cho quân lính rút sẵn gươm ra khỏi vỏ (Dưới cờ, gươm tuốt nắp ra) để chỉ chờ một lời phán là lập tức băm vằm mụ thành muôn mảnh. Tuy nhiên, nàng Kiều lúc đó không còn là nàng Kiều ngây thơ, trong trắng ngày nào nữa. Cuộc chìm nổi “ thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần” đã biến nàng thành một người đàn bà dầy dạn như chính nàng đã nói với Thúc Sinh trước đó (Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau). Trước lúc ra uy, nàng đủ bình tĩnh để “ vờn” kẻ tử thù như mèo vờn chuột (Thoạt trông, nàng đã chào thưa/ Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây). Lời “ chào thưa” ngọt ngào trên một rừng gươm sáng quắc khiến mụ “ hồn lạc phách xiêu”. Nhưng chính lúc này, ta lại thấy một Hoạn Thư không chỉ là người đàn bà có máu ghen và hành động ghen tuông đến mức trở thành…kinh điển, mà còn là người đàn bà đầy bản lĩnh. Mụ trấn tĩnh rất nhanh, và “Khấu đầu dưới trướng liệu điều kêu ca”. Chỉ khấu đầu thôi chứ không quỳ lạy như lễ nghi hồi đó bắt buộc. Chỉ riêng điều này thôi, cũng đã thấy bản lĩnh của Hoạn Thư rồi. Xin bạn đọc chớ ngại dài, hãy để tôi dẫn hết lời kêu ca của cô con gái quan đầu triều ( tể tướng) này: Rằng, tôi chút phận đàn bà/ Ghen tuông thì cũng người ta thường tình/ Nghĩ khi cho các viết kinh/ Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo/ Lòng riêng, riêng những kính yêu/ Chồng chung, đã dễ ai chiều cho ai… Lời kêu ca, cũng chính là bản “ gỡ tội” trước toà của Hoạn Thư, có thể nói là tuyệt hảo, những luật sư giỏi nhất của ta ngày nay, chắc cũng chỉ đạt được trình độ ấy. Chuyện độc ác của mình ngày nào bị mụ lấp liếm đi, hạ thấp xuống thành chuyện “ thường tình” của đàn bà trong khi lời kể ơn thì lại được nhấn mạnh. Tôi hành hạ bà đấy, nhưng khi bà “Rắp đem mệnh bạc xin nhờ cửa không” thì tôi vẫn chấp nhận, cho bà ra gác Quan Âm nhà tôi “Có cây trăm thước, có hoa bốn mùa/ Có cổ thụ, có sơn hồ” để bà tu hành. Tu mà không trót, khi bà lấy đồ vàng bạc trong gác Quan Âm trốn đi, tôi đã không theo đuổi, dù lúc đó, với thế lực của mình, việc tôi cho người truy nã bà nào có khó khăn gì. Bản “ gỡ tội” của Hoạn Thư đã đẩy chánh án kiêm bị hại Vương Thuý Kiều vào thế vô cùng lúng túng, nên dù căm hận chất chứa đầy lòng mà nàng cũng phải cất tiếng khen (Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời). Không còn cách nào khác, nàng đành phải "truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay”.
Phiên toà thứ nhất, nàng Kiều đã thắng vì tình. Còn ở phiên toà thứ hai này, nàng lại thua về lý.