| Hotline: 0983.970.780

Hạt gạo Việt đã xuất hiện nhiều nhất trên bàn ăn nước nào trong quý I?

Chủ Nhật 28/04/2024 , 07:00 (GMT+7)

Gần 30 nước trên thế giới đã nhập khẩu lượng gạo lớn từ Việt Nam. Trong đó, có quốc gia nhập khẩu tới cả triệu tấn, trị giá nhiều trăm triệu USD.

Như NNVN đã thông tin, ngày 26/4, Bộ Công Thương phối hợp với Bộ NN-PTNT cùng UBND TP Cần Thơ tổ chức Hội nghị đánh giá kết quả xuất khẩu gạo năm 2023, quý I/2024 và bàn định hướng xuất khẩu gạo trong thời gian tiếp theo.

Tại hội nghị, dẫn số liệu từ Tổng cục Hải quan, lãnh đạo Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công thương) cho biết, trong quý I, xuất khẩu gạo của Việt Nam đã đạt giá trị cao nhất từ trước tới nay với gần 2,2 triệu tấn, kim ngạch hơn 1,4 tỷ USD. Trong đó, giá trung bình gần 654 USD/tấn, tăng 17,6% về lượng, 45,5% về kim ngạch và tăng 23,6% về giá so với cùng kỳ 2023.

Trước đó, trong năm 2023, Việt Nam đã xuất khẩu hơn 8,1 triệu tấn gạo với trị giá 4,67 tỷ USD, tăng hơn 14% về lượng và tăng hơn 35% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2022. Giá xuất khẩu bình quân đạt 575 USD/tấn, tăng hơn 18% so với mức bình quân của năm 2022.

 

Mục tiêu xuất khẩu 7,4 triệu tấn gạo "trong tầm tay"

Nhận định tình hình thị trường gạo thế giới trong năm 2024, ông Nguyễn Anh Sơn, Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu cho biết, sản lượng gạo toàn cầu niên vụ 2023 – 2024 sẽ đạt gần 518 triệu tấn. Trong khi đó, tổng mức tiêu thụ là 525 triệu tấn. Như vậy, theo dự báo, thế giới sẽ thiếu hụt khoảng 7 triệu tấn gạo năm nay.

Trong khi đó, một đánh giá từ Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) cho thấy, nguồn cung gạo toàn cầu dự báo sẽ không còn dồi dào, khi nguồn cung chính chiếm tới 40% sản lượng toàn cầu là Ấn Độ sẽ giảm 4 triệu tấn so với niên vụ trước, còn 132 triệu tấn.

Đồng thời, các thị trường gạo lớn khác như Philippines, Indonesia, Thái Lan, Campuchia… cũng được dự báo giảm sản lượng do tác động của hiện tượng El Nino và biến đổi khí hậu. Và đây là cơ hội cho các nước xuất khẩu gạo, trong đó có Việt Nam.

Theo Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Trần Thanh Nam, năm 2024, dự kiến Việt Nam sẽ xuất khẩu khoảng 7,4 triệu tấn gạo. Trong đó, lượng gạo hàng hóa cho xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2024 ước 4,38 triệu tấn và 6 tháng cuối năm trên 3 triệu tấn.

Thứ trưởng Nam khẳng định, hiện nay sản lượng lúa đạt khoảng 43 triệu tấn, tương đương khoảng 20 triệu tấn gạo. Con số này hoàn toàn đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và phục vụ xuất khẩu.

"Hạt ngọc" Việt Nam trên các bàn ăn thế giới

Trong quý I vừa qua, xuất khẩu gạo của Việt Nam được đánh giá là tiếp tục chiếm lĩnh các thị trường trọng điểm, có nhu cầu lớn về sản lượng. Vị thế hạt gạo Việt ngày càng khẳng định, khi được các đối tác nhập khẩu và người tiêu dùng quốc tế ưa chuộng.

Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, trong quý 1, có gần 30 quốc gia nhập khẩu lượng lớn gạo từ Việt Nam, được ghi nhận với sản lượng từ hơn 43 tấn tới cả triệu tấn, đạt 1,26 tỷ USD; chiếm tới 90% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của cả nước.

Nguồn: số liệu từ Tổng cục Hải quan

Nguồn: số liệu từ Tổng cục Hải quan

Đơn cử, tại thị trường Philippines, với sản lượng hơn 1,01 triệu tấn, trị giá gần 649 triệu USD, riêng quốc gia này đã chiếm tới 46,4% tổng lượng và 45,5% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của cả nước.

Trước đó, trong năm 2023, Philippines cũng là thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam với khối lượng đạt hơn 3,1 triệu tấn, trị giá 1,75 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 38,5% về lượng và 37,5% về trị giá. Dữ liệu từ Cục Công nghiệp Thực vật Philippines (BPI) cho thấy, năm 2023, Việt Nam là thị trường cung cấp gạo lớn nhất vào Philippines, chiếm tới 84% tổng nhập khẩu

Đứng thứ hai là Indonesia với sản lượng xuất khẩu đạt hơn 445 nghìn tấn, trị giá hơn 285 triệu USD, tăng mạnh gần 200% về lượng, tăng 308,8% kim ngạch và tăng 36,4% về giá so với cùng kỳ năm 2023.

Trong năm 2023, xuất khẩu gạo sang thị trường Indonesia đạt mức cao kỷ lục trong 12 năm với gần 1,2 triệu tấn, kim ngạch 640,2 triệu USD, tăng đột biến gấp 9,8 lần về lượng và tăng 10,9 lần về kim ngạch so với năm trước.

Đồng thời, Indonesia đã trở thành thị trường xuất khẩu gạo lớn thứ 2 của Việt Nam trong năm 2023, chiếm 14,3% tổng khối lượng. Qua đó, đưa Việt Nam trở thành nguồn cung gạo lớn thứ hai vào Indonesia, chỉ sau Thái Lan.

Ở vị trí thứ 3, trong quý I/2024, xuất khẩu gạo sang Malaysia đạt 98.917 tấn, trị giá hơn 61,5 triệu USD, tăng 28,8% về lượng, 60,6% kim ngạch và 24,7% về giá so với quý I/2023.

Như vậy, Malaysia vừa tạm thời vượt qua Trung Quốc, trở thành thị trường xuất khẩu thứ 3 của gạo Việt Nam. Bởi trong năm 2023, Trung Quốc là thị trường xếp ở vị trí này, với sản lượng đạt 917.255 tấn, trị giá 530,6 triệu USD.

Xem thêm
Ngành tôm toàn cầu sẽ tăng trưởng khiêm tốn trong năm 2024

Các thị trường quan trọng như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và Hàn Quốc sẽ có sự cải thiện nhẹ về nhu cầu tiêu thụ tôm, nhưng khó khăn vẫn còn nhiều.

Phú Lương lần đầu tổ chức Ngày hội hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau THCS

Sáng 21/4, huyện Phú Lương (Thái Nguyên) tổ chức Ngày hội Tư vấn hướng nghiệp và phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THCS năm 2024.

Hải Phòng khởi công dự án sản xuất vật liệu phân hủy hơn 2 nghìn tỷ

Đây là một trong những sự kiện quan trọng nằm trong chuỗi các hoạt động chào mừng 69 năm ngày giải phóng Hải Phòng và Lễ hội Hoa Phượng đỏ 2024.

Những gương mặt 'vàng' trong danh sách trả nợ trái phiếu doanh nghiệp bất động sản

Năm 2024, hơn 90 doanh nghiệp bất động sản có trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn với tổng nợ vay gần 100.000 tỷ đồng. Trong đó, nhiều 'ông lớn' có nợ tới hàng nghìn tỷ.

Bình luận mới nhất

Trong bài này, tác giả (sau đây xưng là Nattoi) để cập chủ yếu 03 vấn đề, trong đó chủ yếu tập trung cho giải quyết vấn đề số 1, hai vấn đề còn lại chỉ được nhắc đến: Một: Phương pháp thiết kế điều tiết lũ hiện hành chưa đưa thông số mực nước an toàn ở hạ du vào tính toán nên yêu cầu phòng chống lũ cho hạ du chưa được đảm bảo và không có tiêu chí để xác định hiệu quả vận hành giảm lũ. Vấn đề này đã được Nattoi giải quyết cả về mặt lý thuyết và thực hành (trình bày ở mục 3.4). Hai: Tiêu chí xác định MNCNTL, MNTNĐL không được công khai, minh bạch, làm cho việc kiến nghị điều chỉnh hạ thấp 2 mực nước đối với các hồ chứa thủy điện nhằm tăng dung tích trống phòng lũ là điều bất khả. Về vấn đề này (trình bày tại Mục 3.1), Nattoi chưa nêu cụ thể phương án giải quyết là để tập trung nội dung vào vấn đề số 1 như đã nêu, nhưng hướng giải quyết là đã có. Ba: Vấn đề bán con trâu mà tiếc sợi dây thừng: Thiết kế xây dựng đập, hồ chứa nước được tính toán an toàn ổn định lật, trượt đến mực nước lớn nhất thiết kế và kiểm tra với mực nước lớn nhất kiểm tra, cho phép giữ mực nước hồ không vượt quá mực nước lớn nhất kiểm tra nhưng lại chỉ cho phép sử dụng dung tích trống phòng lũ đến mực nước dâng bình thường là sự lãng phí ghê gớm trong đầu tư xây dựng và quản lý an toàn đập, hồ chứa nước. Hướng giải quyết vấn đề số 3 (trình bày tại Mục 3.2) vốn là tự nhiên đã có nhưng không được sử dụng vì không nghĩ đến giảm lũ cho hạ du.
+ xem thêm