| Hotline: 0983.970.780

Khi lòng dân đã thuận: 'Dân tin - động lực phát triển bền vững'

Thứ Năm 11/06/2015 , 06:15 (GMT+7)

Ông Tăng Minh Lộc, Cục trưởng, Chánh Văn phòng điều phối NTM Trung ương, đã nói như vậy trong cuộc trả lời phỏng vấn Báo NNVN./ Bí quyết Củ Chi

Ông Tăng Minh Lộc (ảnh) nói: Hiếm có một Chương trình MTQG nào mà thu hút được cả hệ thống chính trị vào cuộc rốt ráo và sự đồng thuận đến tuyệt đại đa số của người dân như Chương trình xây dựng NTM.

ong-tng-minh-loc170819955

Từ những gì hiện hữu sau gần 5 năm đi vào thực hiện, ông Lộc cho rằng đây sẽ là chương trình lan tỏa khắp mọi làng quê Việt Nam với một sức sống bền vững chưa từng có.

Hiện thực rõ nét

Phải chăng ông muốn khẳng định những kết quả đạt được trong chương trình là phù hợp với mục tiêu đặt ra?

Đúng vậy. Xuất phát từ những mặt yếu cơ bản của nông nghiệp - nông dân - nông thôn nước ta mà Chương trình NTM đề ra mục tiêu: kinh tế phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn được nâng cao. Nông thôn phát triển theo quy hoạch. Hạ tầng kinh tế xã hội tương đối hiện đại để phát triển lâu dài. Môi trường xanh - sạch - đẹp. Dân trí được nâng cao; bản sắc văn hóa các dân tộc được bảo tồn, phát triển. Chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở phải được cải thiện. Đây chính là những đặc trưng cơ bản NTM trong giai đoạn 2010-2020 được lượng hóa bằng 19 tiêu chí.

Tổng quan là vậy, còn cái cụ thể ở đây là gì thưa ông?

Sau gần 5 năm thực hiện chúng ta có đủ cơ sở để đánh giá, đối chiếu với các chủ trương đề ra. Cả nước hiện có 864 xã và 4 huyện đạt chuẩn NTM. Dự tính cuối năm nay có khoảng 1.800 xã đạt chuẩn NTM (trên 20% số xã).

Ở những nơi đạt chuẩn thì mục tiêu đã rõ nhưng trên bình diện chung cả nước, kể cả nơi chưa đạt chuẩn thì bình quân thu nhập khu vực nông thôn đã tăng 1,84 lần so với năm 2010.

Hạ tầng nông thôn cải thiện rõ nét làm thay đổi hẳn bộ mặt làng quê. Điều này không chỉ tạo điều kiện để phát triển KT - XH mà còn tăng hưởng thụ trực tiếp cho người dân. Đây là điều mà người dân cảm nhận rõ nhất.

Mặt khác, môi trường nông thôn được quan tâm - nhiều nơi phát động phong trào “đẹp làng - sạch nhà - sạch ngõ”. Con số 48% số xã đã có tổ thu gom rác (tăng 38%) so với trước đã nói lên điều đó.

Cái được lớn nhất chính là nhận thức của người dân về NTM đã tăng rõ rệt, từ thụ động đến nay đại đa số hiểu rằng đây là sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Chính phủ đối với nông dân. Chính phủ hỗ trợ một phần, còn lại người dân phải tự làm. Làm cho mình và cho con cháu mình hưởng. Do đó mà tin tưởng và tích cực đóng góp. Ngay ở những xã khó khăn nhất cũng xây dựng được 1-2 công trình, nơi nhiều làm được 10 - 12 công trình.

Về nguồn lực, cả nước đã huy động được trên 851.000 tỷ đồng cho xây dựng NTM. Trong đó, NSNN chiếm 31,3%; DN có 5,7% còn lại là nhân dân đóng góp. Chừng đó cho thấy sức dân đã tham gia Chương trình lớn đến mức nào. Chỉ tính riêng năm 2014, cả nước có hơn 19.000 công trình hạ tầng nông thôn được xây dựng nhưng dường như không xảy ra một vụ kiện cáo nào cả. Chúng ta có thể tự tin khẳng định rằng, Chương trình NTM rất hợp lòng dân và tin chắc nó sẽ có sức sống bền vững lâu dài.

Đột phá ở địa phương

NTM là một chương trình tổng thể, phong phú. Quá trình triển khai xuất hiện nhiều cách làm mới mẻ, sáng tạo. Ông có thể chia sẽ một số mô hình để lại dấu ấn nhất?

Chính sách của Trung ương chỉ là “mẫu số chung” thôi. Nước ta có nhiều vùng sinh thái, nhiều vùng kinh tế - văn hóa nên không thể áp dụng rập khuôn, mà đòi hỏi cách vận dụng, cách làm sáng tạo ở địa phương mới có thể thành công được.

nh-2-6170819824
Chương trình xây dựng NTM trở thành phong trào lan tỏa khắp nơi nơi

Tôi ấn tượng với Chương trình OCOP (Mỗi xã, phường một sản phẩm) của Quảng Ninh. Trên cơ sở các làng nghề cũ truyền thống trong địa bàn, tỉnh đã lựa chọn và có chính sách để hỗ trợ các hộ làm nghề nâng cấp thiết bị máy móc tiên tiến, đào tạo nâng cao trình độ tay nghề, hỗ trợ vay vốn, kiểu dáng mẫu mã và tiếp cận thị trường…

Do vậy mà thời gian không dài, những làng nghề trước đây “èo uột” nay đã có sức sống, sôi động hơn trong SX hàng hóa. Thu nhập của người dân tăng nhanh và nhiều sản phẩm làm ra từ làng đã lắng đọng trong tâm hồn du khách về mảnh đất này.

Hay như chương trình dồn điền đổi thửa gắn với cải tạo lại đồng ruộng cho phù hợp đưa cơ giới hóa vào SX ở Thái Bình. Mô hình xây dựng “khu dân cư kiểu mẫu”, “vườn kiểu mẫu” ở Hà Tĩnh.

Cách phát triển nông nghiệp ven đô gắn với việc hỗ trợ lãi suất cho hộ nông dân ở TP Hồ Chí Minh. Cách huy động nguồn lực ngoài ngân sách ở An Giang. Mô hình SXNN công nghệ cao ở Lâm Đồng. Giải pháp làm đường bê tông ở Tuyên Quang.

Còn điều khiến ông trăn trở với chương trình này cho đến thời điểm hiện nay?

Trước hết về chính sách. Chúng ta chưa có cơ chế, chính sách, cách làm phù hợp với đặc thù ở những vùng khó khăn như Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, vùng biên giới, hải đảo, vùng bãi ngang. Những vùng này tỷ lệ xã đạt chuẩn rất thấp và chênh lệch khá xa so với các vùng khác.

Chính sách thu hút DN đầu tư vào nông nghiệp - nông thôn chưa phát huy tác dụng. Chính sách tín dụng chỉ phát huy tốt ở các vùng SX hàng hóa. Chúng ta chưa có chính sách môi trường nông thôn và bài toán xử lý rác thải, nước thải nông thôn vẫn nan giải…

Để khắc phục những hạn chế, tồn tại nêu trên thì thời gian tới với trách nhiệm là cơ quan tham mưu - Văn phòng Điều phối NTM Trung ương sẽ đề xuất những giải pháp chủ yếu nào, thưa ông?

Giải quyết những bất cập để NTM phát triển không chỉ là trách nhiệm của ngành nông nghiệp mà còn là của các Bộ, ngành liên quan và đặc biệt là trách nhiệm của các địa phương nữa. Chúng tôi sẽ đánh giá đầy đủ thực trạng và nguyên nhân các mặt hạn chế để tham mưu cho Ban Chỉ đạo Trung ương chỉ đạo các Bộ, ngành và địa phương khắc phục.

Trước mắt năm sẽ đề xuất cơ chế, chính sách cho các vùng khó khăn: Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, vùng biên giới, bãi ngang hải đảo. Chính sách xử lý rác thải nông thôn.

Đề xuất Chính phủ sửa đổi, bổ sung Bộ tiêu chí Quốc gia NTM theo hướng không làm giảm chất lượng tiêu chí nhưng giúp các địa phương linh hoạt trong vận dụng để nâng cao hiệu quả. Xây dựng cơ chế tạo động lực cho các xã đã đạt chuẩn tiếp tục nâng cao chất lượng NTM.

Đặc biệt trên cơ sở tổng kết giai đoạn 1 sẽ đề xuất nhiệm vụ giải pháp hiệu quả hơn cho giai đoạn 2016 - 2020.

Xin cám ơn ông!

Cuộc đua nước rút 

Ông Tăng Minh Lộc cho hay, cuối năm nay tổng kết 5 năm thực hiện Chương trình NTM, chúng ta sẽ chứng kiến một số cuộc đua giữa “rùa” và “thỏ”. Theo ông Lộc, dấu ấn cá nhân của người đứng đầu làm đậm nét sự thành công cho chương trình.

“Nơi nào người đứng đầu tâm huyết đều tạo ra đội ngũ tham mưu giỏi và đột phá… Điều này lý giải tại sao một số địa phương có xuất phát điểm thấp, mà vẫn tự tạo ra được chuyển biến nhanh và rõ nét như Hà Tĩnh, Tuyên Quang. Ngược lại, có nơi xuất phát điểm cao nhưng kết quả rất thấp như Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh…”, ông Lộc cho biết.

 

Xem thêm
424 hộ nghèo tỉnh Ninh Bình được hỗ trợ xây dựng, sửa chữa nhà ở

Năm 2024, tỉnh Ninh Bình sẽ hỗ trợ hơn 37 tỷ đồng xây dựng, sửa chữa nhà ở cho 424 hộ nghèo, khó khăn trên địa bàn.

Hưng Yên: Nhiều giải pháp đảm bảo vệ sinh môi trường nông thôn

Những giải pháp dưới đây vừa giúp giảm căn bản ô nhiễm môi trường, vừa tạo ra lượng lớn phân hữu cơ chất lượng tốt chăm bón cho cây trồng.

Bến Tre bán sản phẩm OCOP trên Youtube, Tiktok

Hội Nông dân Bến Tre vừa có chương trình ghi nhớ hợp tác để thúc đẩy thương mại số sản phẩm OCOP.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm