Theo số liệu của Cục Chăn nuôi, 6 tháng đầu năm 2021, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi của nước ta chỉ đạt chưa tới 200 triệu USD, rất là nhỏ so với kim ngạch nhập khẩu 1,8 tỷ USD sản phẩm chăn nuôi, khoảng 3,85 tỷ USD về nguyên liệu thức ăn chăn nuôi.
Bài toán đặt ra với ngành chăn nuôi hiện nay là làm thế nào để thu hẹp khoảng cách giữa xuất khẩu sản phẩm vật tư ngành chăn nuôi với sản phẩm ngành chăn nuôi, phát huy vai trò lớn hơn nữa về kim ngạch xuất khẩu của ngành chăn nuôi.
Nguồn cung vẫn dồi dào, nhưng tiêu thụ đang khó
Theo ông Gabor Fluit, Tổng Giám đốc De Heus Châu Á (Tập đoàn De Heus), thời gian qua là quãng thời gian khó khăn với nền kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng.
Trong năm 2020, Việt Nam đã khống chế được dịch Covid-19 cơ bản tốt hơn nhiều quốc gia khác. Tuy nhiên, ngành thức ăn chăn nuôi lại có tới 70% nguyên liệu phải nhập khẩu. Vì vậy, khi dịch Covid-19 bùng phát đã ảnh hưởng không nhỏ đến giá nguyên liệu đầu vào.
Năm 2021, hầu hết các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam, giá thức ăn chăn nuôi đã tăng rất cao. Từ tháng đến nay 4/2021, khi dịch bệnh Covid-19 bùng phát, việc lưu thông vận tải nội địa giữa các tỉnh, từ bến cảng đến các nhà máy thức ăn, từ nhà máy thức ăn đến các trại chăn nuôi gặp rất nhiều khó khăn.
Đặc biệt trong thời gian đầu, khi các địa phương thắt chặt công tác phòng chống dịch bệnh Covid-19, việc vận chuyển, kiểm tra đội ngũ tài xế gặp nhiều thủ tục phát sinh, dẫn tới chi phí vận tải tăng lên rất nhiều.
Thời gian qua, một số nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi còn hoạt động, cũng thực hiện theo mô hình “3 tại chỗ” nên các doanh nghiệp phải chăm lo đời sống cho đội ngũ công nhân, làm cho chi phí của doanh nghiệp tăng lên. Điều này tác động mạnh mẽ tới chi phí đầu vào của các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi và chi phí sản xuất của các trang trại chăn nuôi cũng tăng theo. Trong khi sản phẩm đầu ra cung cấp cho người tiêu dùng khó tiêu thụ.
Ông Gabor Fluit đánh giá, hiện nay, nguồn cung các sản phẩm chăn nuôi vẫn đang khá dồi dào, nhưng giá bán lại giảm rất mạnh, tiêu thụ chậm.
Cơ hội vươn ra thị trường toàn cầu
Ông Gabor Fluit đánh giá: Hiện nay, những sản phẩm nông, thủy sản mà Việt Nam xuất khẩu mạnh như tôm, cá tra, cà phê... là do có lợi thế cạnh tranh về giá thành, địa lý, khí hậu…
Có thể thấy rằng, để tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm chăn nuôi, vấn đề cần quan tâm đầu tiên là giá thành. Trong đó, việc giảm chi phí đầu vào là yếu tố quan trọng. Ngành chăn nuôi Việt Nam theo đó vẫn còn rất nhiều việc phải làm để giảm chênh lệch giá thành với các nước đang xuất khẩu mạnh về sản phẩm chăn nuôi.
Hiện nay, Việt Nam đã gia nhập vào các hiệp định thương mại, nên việc giảm chi phí đầu vào, trong đó có chi phí quan trọng là về nguyên liệu thức ăn chăn nuôi sẽ cần được thực hiện để nâng sức canh tranh.
Hiện nay, ngành thức ăn chăn nuôi của Việt Nam vẫn còn phải đóng thuế nhập khẩu đối với một số nguyên liệu nhập khẩu. Nếu giảm tiếp được mức thuế này, sẽ giúp tăng sức cạnh tranh cho ngành chăn nuôi Việt Nam.
Thời gian vừa qua, Bộ NN-PTNT, Bộ Công thương cũng đang đề xuất giảm tiếp chi phí nhập khẩu các mặt hàng nguyên liệu thức ăn chăn nuôi như đậu nành, bắp, lúa mì…
Đối với con giống, những năm qua, chăn nuôi gia cầm của Việt Nam đã sử dụng những con giống tốt nhất trên thế giới. Đối với lợn, nhiều công ty đã và đang đầu tư vào lợn giống siêu thịt, nhiều dự án liên doanh liên kết được triển khai. Những dự án liên doanh đó sẽ giúp tăng năng suất sản xuất con giống, nhờ đó, giá thành lợn con sẽ giảm.
Ông Gabor Fluit nhấn mạnh: Việt Nam muốn xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi đi các thị trường nhập khẩu lớn như Châu Âu, thì phải đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu từ phía đối tác nhập khẩu.
Sản phẩm xuất khẩu phải đảm bảo không có tồn dư kháng sinh và phải được lấy từ những vùng an toàn dịch bệnh. Các doanh nghiệp phải chứng minh được khi có dịch bệnh xảy ra, sản phẩm của mình được lấy từ vùng không có dịch. Vì vậy, cần có sự phân tách ra từng vùng, kiểm soát chặt chẽ các trang trại lớn cũng như các trại nhỏ lẻ trong từng khu vực.
"Trong 1 - 2 năm tới, Việt Nam cần cố gắng đàm phán để có thể xuất khẩu ức gà sang thị trường Châu Âu, vì tiềm năng còn rất lớn khi hàng năm họ nhập khoảng 1 triệu tấn ức gà.
Hiện tại, xuất khẩu gia cầm của Việt Nam chủ yếu nằm ở việc xuất khẩu thịt gà chế biến qua Nhật Bản. Một số doanh nghiệp cũng xuất khẩu sản phẩm trứng vịt hoặc các sản phẩm khác vào khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên tổng sản lượng chưa nhiều. Theo tôi cơ hội cho xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi của Việt Nam trong tương lai là có, nhưng cần phải tiến hành nhiều bước mới làm được", ông Gabor Fluit đánh giá.
"Nhiều mặt hàng nông, thủy sản của Việt Nam đã xuất khẩu thành công và có vị thế trên thị trường quốc tế như tôm, cá tra, cá biển, rau, trái cây…, giúp hình ảnh Việt Nam cải thiện rất nhiều. Đối với gia cầm, từng bước Việt Nam cũng sẽ có nhiều cơ hội để vươn ra thị trường toàn cầu.
Ở thị trường trong nước, Việt Nam có khoảng 100 triệu dân, đây là thị trường rất lớn, hấp dẫn. Vì vậy, nếu ngành chăn nuôi Việt Nam nâng được sức cạnh tranh, thì sẽ giảm được thị phần nhập khẩu.
Cần nhìn nhận rằng, xuất khẩu là một cơ hội, nhưng giảm nhập khẩu cũng là một cơ hội, vì hàng năm Việt Nam cũng đang nhập khẩu một lượng rất lớn các sản phẩm chăn nuôi", ông Gabor Fluit nhấn mạnh.
Không "đi một mình..."
Mới đây, De Heus đã ký hiệp định hợp tác vớiCông ty Masan MEATLife (Tập đoàn Masan). Ông Gabor Fluit cho biết: Đây là mô hình chuỗi liên kết lớn, bởi Masan là tập đoàn lớn về cung cấp sản phẩm chăn nuôi, tiêu dùng.
Những năm gần đây, Masan đã tập trung mở nhà máy giết mổ, chế biến thịt heo ở miền Bắc và miền Nam. Masan cũng đã đầu tư vào hệ thống siêu thị Vinmart nên họ cần nguồn cung rất lớn từ các trại chăn nuôi.
Trong khi De Heus được đánh giá là doanh nghiệp lâu năm trong lĩnh vực thức ăn chăn nuôi. Vì vậy, hai bên thống nhất hình thành chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ. Mô hình này có điểm khác biệt với các công ty khác ở chỗ, các công ty phải tự mình đảm nhiệm tất cả các khâu từ chăn nuôi, chế biến, đến tiêu thụ.
Trong việc phát triển chăn nuôi, người chăn nuôi có sự ảnh hưởng và đóng một vai trò rất quan trọng. Chủ các trang trại chăn nuôi là người trực tiếp chịu trách nhiệm kiểm soát chất lượng, an toàn, quản lý lao động trong trại đó… Nhờ đó, chất lượng sản phẩm sẽ tốt hơn việc đi thuê trại nuôi gia công như một số công ty đang làm. Việc thuê nuôi gia công về lâu dài sẽ khó đảm bảo được chất lượng an toàn cho sản phẩm.
Hơn nữa, đối với Việt Nam, khi các trại chăn nuôi quy mô nhỏ phát triển thành quy mô vừa, từ quy mô vừa phát triển thành trại quy mô lớn, thì chính các trại đó sẽ mang lại giá trị kinh tế cho địa phương.
Vì vậy, để làm kinh tế nông nghiệp, việc hình thành chuỗi liên kết sản xuất sẽ hiệu quả hơn việc tự sản xuất. Tập đoàn De Heus tập trung đầu tư vào những yếu tố cần thiết cho người chăn nuôi để có thể nâng sức cạnh tranh, trong đó thức ăn và con giống là hai yếu tố quan trọng.
Quan điểm của De Heus là không đi một mình, mà đi cùng nhiều tập đoàn khác để tạo sức mạnh lớn hơn. Vì thế, chúng tôi chọn cách sẽ hình thành nhiều chuỗi liên kết với nhiều tập đoàn khác trong nước.
Ông Gabor Fluit, Tổng Giám đốc De Heus Châu Á (Tập đoàn De Heus)