| Hotline: 0983.970.780

Nấm xanh diệt rầy nâu hiệu quả

Thứ Năm 29/03/2012 , 14:37 (GMT+7)

Sau nhiều năm thử nghiệm nấm xanh đã cho thấy khả năng tiêu diệt, khống chế rầy nâu rất tốt ở các tỉnh Nam bộ.

* Cần đưa vào chương trình quốc gia

Sau nhiều năm thử nghiệm nấm xanh đã cho thấy khả năng tiêu diệt, khống chế rầy nâu rất tốt ở các tỉnh Nam bộ. Theo nhiều chuyên gia trồng trọt, cần có một chương trình quốc gia về áp dụng nấm xanh để kiểm soát dịch rầy nâu, vàng lùn, lùn xoắn lá.

Theo các chuyên gia BVTV, từ cuối thế kỷ 19, người ta đã phát hiện nấm xanh có khả năng gây hại cho côn trùng. Kỹ sư Hồ Quang Cua, PGĐ Sở NN- PTNT Sóc Trăng cho hay trên địa bàn tỉnh này, nấm xanh từng xuất hiện trên diện rộng trong tự nhiên, góp phần tích cực trong việc tiêu diệt rầy nâu. Đó là vụ mùa năm 1991, nấm xanh "có mặt" trên vùng lúa cao sản IR42 đang gần trổ với quy mô 13.500 ha. Mật độ rầy nâu trên lúa rất cao, có nơi tới 5.000- 6.000 con/m2. Vậy mà nấm xanh đã tiêu diệt toàn bộ rầu nâu trên diện tích đó. 

Nông dân học cách tự làm nấm xanh

Đầu thế kỷ 21, việc nghiên cứu, thử nghiệm nấm xanh để tiêu diệt rầy nâu trên lúa được đẩy mạnh, nhất là trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng, nơi đã tiến hành thử nghiệm nấm xanh khá bài bản, liên tục, với sự tham gia của nhiều cơ quan tổ chức. Đầu tiên, tỉnh này đã mời TS Nguyễn Thị Lộc đến để xây dựng mô hình dùng nấm xanh khống chế rầy nâu. Năm 2005, 48 ha lúa ở các huyện Mỹ Xuyên và Mỹ Tú đã được Viện lúa ĐBSCL thực nghiệm phun nấm xanh và nấm trắng để kiểm soát rầy nâu.

Từ năm 2006- 2008, Chi cục BVTV Sóc Trăng thực hiện mô hình phun nấm xanh và nấm trắng trên diện rộng (hàng ngàn ha) ở các vùng nhạy cảm với rầy nâu (mạ mùa, lúa mùa, lúa thơm). Sau 3 năm liên tục hỗ trợ các chế phẩm nấm xanh và nấm trắng cho nông dân Sóc Trăng, dự án nâng cao chất lượng cây trồng vật nuôi do CIDA (Canada) tài trợ đã chuyển hướng hoạt động bằng cách tổ chức đoàn sang Thái Lan học tập cách nuôi cấy nấm xanh tại nông hộ. Đồng thời nghiên cứu cải tiến để chuyển giao cách thức nuôi cấy nấm xanh một cách tiện lợi và hiệu quả cho nông dân kể từ vụ ĐX 2008- 2009.

Rồi từ vụ HT 2009, quá trình xã hội hóa việc SX nấm xanh phòng trừ rầy nâu đã được bắt đầu ở Sóc Trăng với sự hỗ trợ kinh phí của UBND các huyện cho các trạm BVTV để tạo dựng các mô hình nông dân tự nuôi cấy nấm xanh. Từ vụ mùa 2009- 2010, ở Sóc Trăng đã xuất hiện hàng chục tủ nuôi cấy nấm xanh do nông dân tự đầu tư. Chính việc tự nuôi cấy nấm xanh mà nông dân Sóc Trăng đã phát hiện ra “nấm tươi” do họ SX có giá thành rất rẻ và hiệu lực ký sinh nhanh hơn nấm khô của các cơ sở SX công nghiệp.

Trên bình diện Nhà nước có thể xem nấm xanh là phương tiện khống chế dịch hại lây lan trên diện rộng một cách hiệu quả. Việc phun nấm xanh vào một đám rầy sắp di trú sẽ phát tán nguồn nấm bệnh hết sức rộng rãi. Hoặc phun nấm vào một bãi đáp của rầy di trú sẽ giúp khống chế mật độ rầy của lứa sau rất hiệu quả. Nếu loại trừ yếu tố di trú (có mật số rầy cao, gây hại nhanh được xem như còn dịch) thì nấm xanh hoàn toàn có thể kiểm soát rầy nâu gây hại tại chỗ.

Theo kỹ sư Hồ Quang Cua, kinh nghiệm 10 năm sử dụng nấm xanh ở Sóc Trăng cho thấy, nấm xanh SX ở Nam Bộ rất dễ dàng, nhất là vào mùa đông và mùa xuân. Với sự chuyển giao kỹ thuật của cơ quan nghiên cứu, việc SX nấm nguồn tại tỉnh có thể thực hiện thành công, thậm chí có khả năng thu thập nguồn nấm trong tự nhiên về phân lập lại để tăng độc tính… Từ sự thành công trong việc dùng nấm xanh khống chế rầy nâu ở Sóc Trăng, nhiều địa phương khác ở Nam bộ cũng đã thử nghiệm mô hình này và bước đầu đã cho thấy sự thành công, cả về hiệu lực khống chế rầy nâu lẫn hiệu quả kinh tế.

Chẳng hạn, ở huyện Nhơn Trạch, Đồng Nai, trong vụ HT 2011, Chi cục BVTV tỉnh này phối hợp trạm BVTV liên huyện Long Thành, Nhơn Trạch chuyển giao quy trình nuôi cấy nấm xanh cho các hộ nông dân. Sau khi học lý thuyết, nông dân ấp Bến Cộ, xã Đại Phước, đã được cán bộ kỹ thuật trực tiếp hướng dẫn nuôi cấy, xây dựng 1 mô hình diện rộng với quy mô 10 ha, trình diễn sử dụng nấm xanh để phòng trừ một số sâu hại chính trên lúa.

Kết quả cho thấy sau 2 lần phun nấm, tỉ lệ nấm kí sinh trên rầy nâu là 35%, sâu cuốn lá nhỏ là 30%. Về hiệu quả kinh tế. dùng nấm xanh trừ sâu, rầy có chi phí ít hơn 300.000 đ/ha so với ruộng phun thuốc hóa học. Trên cơ sở đó, trong vụ ĐX này, Chi cục BVTV Đồng Nai đã triển khai 9 điểm thử nghiệm nấm xanh tại các huyện Định Quán, Vĩnh Cửu, Tân Phú, Long Thành, Nhơn Trạch và Cẩm Mỹ, với tổng diện tích khoảng trên 100 ha.

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm