ĐBSCL là vùng đất với tiềm năng đa dạng và phong phú, nhưng cũng phải đối mặt với nhiều thách thức lớn từ biến đổi khí hậu, thiên tai, như xâm nhập mặn, ngập úng, sạt lở bờ sông bờ biển, sụt lún đất, nước biển dâng. Những hiện tượng này đã và đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người dân, nhất là những cộng đồng nông thôn vốn phụ thuộc lớn vào nông nghiệp.
Đặc biệt những năm gần đây, hiện tượng sạt lở đất bờ sông, bờ biển, hạn mặn, ngập úng gần như bủa vây khắp các tỉnh ĐBSCL, đe dọa trực tiếp đến đời sống, sản xuất của người dân. Với mục tiêu phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu, cần giải pháp hiệu quả để hạn mặn, sạt lở đất, ngập úng không còn là nỗi ám ảnh.
Trong bối cảnh này, diễn đàn được tổ chức nhằm nâng cao nhận thức về diễn biến phức tạp, sự nguy hiểm và hậu quả do sụt lún, sạt lở và ngập úng ở ĐBSCL.
Tại đây, các chuyên gia, nhà nghiên cứu từ các Viện, cơ quan chuyên môn sẽ cung cấp tới diễn đàn các tham luận về tổng quan tình hình thiên tai vùng ĐBSCL; các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phòng chống thiên tai; giải pháp ứng phó; và nhận định về diễn biến thiên tai hạn hán, xâm nhập mặn và nguồn nước trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, đại diện các tỉnh thành, doanh nghiệp, cơ quan truyền thông sẽ chia sẻ ý kiến, thảo luận về công tác phòng chống thiên tai của các địa phương, tăng cường phối hợp giữa cơ quan Trung ương và địa phương cũng như truyền thông nâng cao năng lực cho cộng đồng về phòng chống, ứng phó với thiên tai.
Từ đó, kiến nghị các giải pháp phù hợp nhằm bảo đảm yêu cầu cấp bách trước mắt và lâu dài trong công tác phòng, chống sụt lún, sạt lở, ngập úng vùng ĐBSCL.
9 giờ 20 phút
Xâm nhập mặn cao, nhưng không nghiêm trọng như 2020
Bà Nguyễn Thanh Hoa (ảnh), Phòng Dự báo khí hậu, Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn quốc gia, cho biết, thời tiết trong 3 tháng tới có thể nghiêng về hướng La Nina, đến tháng 3/2025, hiện tượng này sẽ chấm dứt.
Đặc biệt, trong 3 tháng tới, từ 12/2024 đến tháng 2/2025 có thể xuất hiện mưa trái mùa tại ĐBSCL, lượng mưa có thể cao hơn so với trung bình nhiều năm. Nhưng do đây là giai đoạn cuối mùa khô, nên lượng mưa tăng cao không đáng kể.
Phân tích sâu hơn về tình hình mưa tại khu vực Nam bộ, bà Hoa thông tin, lượng mưa có thể tăng cao vào tháng 12/2024, với tổng lượng mưa cao hơn từ 10-30mm so với trung bình nhiều năm, sau đó giảm dần.
Ngoài ra, mùa mưa tại ĐBSCL đang có xu hướng kết thúc muộn hơn. Hiện là cuối tháng 11, nhưng vị chuyên gia khí tượng nhìn nhận, khu vực miền Tây Nam bộ vẫn chưa bắt đầu vào mùa khô.
“Trong vòng 6 tháng tới, tổng lượng dòng chảy trên sông Mekong về ĐBSCL ở mức thiếu hụt so với trung bình nhiều năm từ 5-15%”, bà Hoa nhấn mạnh. Đại diện Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn quốc gia dự đoán, mực nước đầu nguồn sông Cửu Long xuống dần và ở mức thấp hơn trung bình nhiều năm từ 0,1-0,2m. Tuy nhiên, xâm nhập mặn mùa khô năm 2024-2025 ở mức cao hơn trung bình, không nghiêm trọng như mùa khô năm 2015-2016, 2019-2020.
9 giờ 00 phút
Đồng bộ nhiều giải pháp bảo vệ bờ sông, bờ biển tại ĐBSCL
Tại Diễn đàn, ông Lê Thanh Chương (ảnh), Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu chỉnh trị sông và phòng, chống thiên tai (Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam), thông tin, trong trường hợp hoàn thành 133 đập trên sông Mê Kông thì dự báo lượng phù sa về tới ĐBSCL giảm còn 4% (6-7 triệu tấn/năm).
Theo ghi nhận tại các địa phương, tổng số điểm sạt trong khu vực là 743 điểm, với chiều dài 794km (bờ sông 686 điểm/591 km; bờ biển 57 điểm/203 km). Các giải pháp bảo vệ bờ sông đã thực hiện ở ĐBSCL hiện nay hầu hết đều tính toán đầy đủ theo các quy trình, quy phạm hiện hành, tuân thủ trình tự xây dựng cơ bản, quan tâm đến vấn đề xói sâu, tuổi thọ cao; Bảo vệ an toàn cơ sở hạ tầng, đặc biệt ở các đô thị, khu tập trung dân cư. Hầu hết đều là loại gia cố bờ, ít tác động đến dòng chảy, ít tác động đến lòng dẫn. Từ đó, giúp sông giữ nguyên trạng thái tự nhiên.
Tuy nhiên, một vài công trình tính toán chưa hợp lý. Chưa có công cụ giám sát thi công (đặc biệt dưới nước): bao tải cát, rọ đá, thảm đá....; chưa chú trọng theo dõi, đánh giá được tác động do công trình gây ra. Hầu hết công trình xây dựng chưa có nghiên cứu đánh giá tổng thể (đối với công trình chỉnh trị, phân lưu...). Công tác duy tu, bảo dưỡng chưa được chú trọng.
Cũng theo ông Lê Thanh Chương, bờ sông và bờ biển ĐBSCL hiện nay đang trong giai đoạn biến động mạnh về hình thái, ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế, xã hội và môi trường. Để bảo vệ bờ sông, bờ biển hiệu quả cần xem xét kết hợp nhiều giải pháp khác nhau như: giải pháp công trình cứng, giải pháp mềm, giải pháp kết hợp và giải pháp quản lý.
Đẩy mạnh thực hiện các giải pháp phi công trình, quy hoạch lại khu dân cư dọc theo tuyến bờ sông, bờ biển bị sạt lở trên cơ sở so sánh chi phí di dời và xây dựng công trình để quyết định cho phù hợp.
Đối với xử lý sạt lở bờ sông, cần thiết lập quy hoạch chỉnh trị tổng thể các sông lớn, sông rạch chính để đảm bảo lợi dụng tổng hợp của các ngành kinh tế có liên quan.
Đối với các giải pháp công trình cứng và giải pháp nuôi bãi, cần có những dự án nghiên cứu thử nghiệm để quan trắc theo dõi và đánh giá hiệu quả. Hoàn chỉnh và thực thi khung pháp lý về quản lý bờ sông, bờ biển; thiết lập và thực thi hành lang bảo vệ bờ, trong đó quy định khoảng lùi hợp lý trong việc xây dựng công trình hạ tầng, quy hoạch sử dụng đất.
Bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn là giải pháp ưu tiên hàng đầu, vừa thân thiện với môi trường vừa tạo ra đa dạng sinh học cho khu vực ven biển, mang lại sinh kế cho người dân địa phương. Công tác quan trắc, giám sát diễn biến quá trình xói, bồi phải được thực hiện định kỳ hằng năm.
8 giờ 40 phút
Còn khoảng 1 triệu hộ dân ĐBSCL có nguy cơ thiếu nước sinh hoạt
Chia sẻ về tình hình vùng ĐBSCL và định hướng giải pháp phòng, chống cũng như giảm thiểu thiệt hại thiên tai trong thời gian tới, ông Trần Duy An (ảnh), Phó Trưởng phòng Quy hoạch Thủy lợi (Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam), nhận định, thiên tai đã và đang đe dọa trực tiếp đến sinh hoạt, sinh kế của người dân.
Toàn vùng hiện có hơn 800 khu vực sạt lở, với tổng chiều dài trên 1.000km; trung bình mỗi năm, đồng bằng mất từ 300-500ha đất do sạt lở bờ sông, bờ biển. Tốc độ sụt lún trung bình hằng năm toàn ĐBSCL trong giai đoạn này là 1,07cm. Ngoài ra, mùa khô năm 2024, xâm nhập mặn đã làm hơn 50.000 hộ dân ở ĐBSCL bị thiếu nước sinh hoạt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trồng trọt và nuôi trồng thủy sản.
Để công tác phòng, chống thiên tai (PCTT) hiệu quả, đến nay, ĐBSCL đã xây dựng 15 hệ thống thủy lợi tương đối khép kín (7 liên tỉnh, 8 nội tỉnh) phục vụ 2,5 triệu ha (chiếm 64% diện tích ĐBSCL); cơ bản đảm bảo cấp, tiêu thoát nước cho dân sinh và sản xuất nông nghiệp.
ĐBSCL đã tập trung nguồn lực giải quyết các loại hình thiên tai. Công tác chống sụt lún đất, sạt lở bờ sông, kênh rạch, xói lở bờ biển, đã có hiệu quả nhất định nhưng hệ thống chưa được đầu tư đồng bộ đặc biệt là vùng ngọt hóa.
Về xâm nhập mặn, các công trình lớn được xây dựng như Cái Lớn - Cái Bé, Ninh Quới… hỗ trợ kiểm soát vùng xâm nhập mặn cho vùng trồng trọt và giúp giảm số hộ thiếu nước sinh hoạt trong mùa khô. Tuy nhiên, nhiều hệ thống thủy lợi vẫn chưa hoàn chỉnh, thiếu khả năng trữ nước, hệ thống trạm bơm điện còn thiếu so với nhu cầu, có khoảng gần 1 triệu hộ dân có nguy cơ thiếu nước sinh hoạt, trong đó có nhiều khu vực không thể cấp nước tập trung.
Về định hướng PCTT trong thời gian tới, đại diện Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam cho biết, ĐBSCL đặt mục tiêu đến năm 2030 sẽ giảm 50% thiệt hại về người trong các trận lũ lớn so với giai đoạn 2011-2020; hoàn chỉnh hệ thống pháp luật cơ cấu tổ chức PCTT, phòng chống hạn hán cho diện tích có nguy cơ ở vùng giữa vùng ven biển 530.000ha thuộc các tiểu vùng ngọt hóa; giảm thiểu tác động xâm nhập mặn cho 600.000ha khu vực ven biển thuộc vùng dự án thủy lợi; sắp xếp lại, di dời dân cư, phấn đấu hoàn thành 90% việc di dời các hộ dân ra khỏi khu vực có nguy cơ cao xảy ra sạt lở.
Theo ông An, dự báo diễn biến thiên tai vùng ĐBSCL trong bối cảnh mới phức tạp hơn, khó lường hơn do tác động của biến đổi khí hậu và các tác động từ khai thác tài nguyên ở thượng nguồn sông Mê Kông và phát triển nóng về KTXH ở vùng.
“Hạ tầng thủy lợi đóng vai trò quan trọng trong giảm thiểu và phòng chống thiên tai đối với vùng ĐBSCL, hiện đã từng bước được hoàn thiện, tuy rằng trong những năm cực đoan về hạn hán, ngập lụt vẫn còn bộc lộ nhiều rủi ro, đòi hỏi phải hoàn thiện và tiếp cận ở mức độ quản lý rủi ro, đồng bộ cùng các giải pháp mềm khác”, ông An cho biết. Theo đó, bên cạnh phát triển hạ tầng, các giải pháp phi công trình là rất quan trọng để giảm thiểu rủi ro thiên tai.
8 giờ 30 phút
Chung tay biến thách thức thành cơ hội tại ĐBSCL
Phát biểu khai mạc, ông Trần Văn Cao, Phó Tổng biên tập Báo Nông nghiệp Việt Nam, cho biết, ĐBSCL là vùng trọng điểm nông nghiệp quốc gia nhưng thời gian qua đã chịu nhiều ảnh hưởng của biến đổi khí hậu như xâm nhập mặn, nước biển dâng, ngập úng…
“Với mục tiêu phát triển bền vững ĐBSCL, cần một giải pháp căn cơ để ngập úng, xâm nhập mặn không còn là nỗi ám ảnh của người dân”, ông Cao nói, và kêu gọi sự chung tay vào cuộc của cơ quan quản lý, các nhà khoa học, nghiên cứu, tổ chức quốc tế.
Theo ông Cao, diễn đàn sẽ được nghe nhiều tham luận về ĐBSCL, về nhiều chủ đề khác nhau, nhằm phản ánh một bức tranh đa chiều về khu vực này. Đồng thời, ông hy vọng nhiều tham luận, giải pháp lâu dài, bền vững sẽ được trình bày.
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết chuyên đề 120 về ĐBSCL. Trên cơ sở đó, lãnh đạo Báo Nông nghiệp Việt Nam mong muốn, những giải pháp cho vùng này cũng mang tính chuyên biệt, nhằm phát huy hết tiềm năng, cũng như biến thách thức thành cơ hội cho vùng đất Chín Rồng.