| Hotline: 0983.970.780

Ngành thủy lợi Quảng Trị góp phần giải phóng sức lao động

Thứ Sáu 25/11/2022 , 14:57 (GMT+7)

QUẢNG TRỊ Ứng dụng khoa học công nghệ trong lĩnh vực thủy lợi đã góp phần cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.

Tháng 4/2022, công trình đập ngăn mặn sông Hiếu được bàn giao, đưa vào vận hành. Đây là công trình đa mục tiêu, đánh dấu một bước ngoặt lớn trong việc hiện đại hóa và hoàn thiện hạ tầng thủy lợi tại tỉnh Quảng Trị nhằm phục vụ những mục tiêu lớn trong phát triển nông nghiệp theo hướng hàng hóa.

Lãnh đạo tỉnh Quảng Trị trao quà, động viên các đơn vị thi công công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh. Ảnh: Võ Dũng.

Lãnh đạo tỉnh Quảng Trị trao quà, động viên các đơn vị thi công công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh. Ảnh: Võ Dũng.

Trước đó, các công trình như đầu mối hệ thống thủy lợi Nam Thạch Hãn; hồ chứa La Ngà, Trúc Kinh, Hà Thượng, Đá Mài - Tân Kim... cũng đã được đầu tư bài bản, hiện đại, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của ngành nông nghiệp. Trong giai đoạn 2012 -2022, Quảng Trị cũng đã Kiên cố hóa hơn 510 km kênh mương …

Bài liên quan

Theo thông tin từ Chi cục Thủy lợi tỉnh Quảng Trị, đến nay toàn tỉnh đã có hệ thống công trình thủy lợi cơ bản đồng bộ. Điều này đã giúp Quảng Trị từng bước đáp ứng nhu cầu cấp nước đa mục tiêu, đảm bảo công tác tưới tiêu ổn định, chủ động cho trên 85% diện tích gieo cấy lúa 2 vụ với hơn 50,4 nghìn ha; tưới cho cây màu, mạ, cây công nghiệp gần 2,2 nghìn ha; cấp nước cho gần 2 nghìn ha nuôi trồng thủy sản; tiêu nước đầu, cuối vụ 7,5 nghìn ha…

Sự phát triển của ngành thủy lợi tỉnh Quảng Trị đã tạo điều kiện đẩy mạnh thâm canh, giải phóng sức lao động, tăng năng suất, góp phần chuyển dịch cơ cấu cây trồng.

Các giải pháp tưới tiên tiến, tưới khoa học, tiết kiệm nước đã được áp dụng ngày càng rộng rãi trên địa bàn tỉnh. Nhiều mô hình tưới tiết kiệm, tưới cho cây trồng cạn được thực hiện tại một số địa phương bước đầu đã mang lại kết quả tích cực, góp phần đẩy mạnh ứng dụng khoa học vào sản xuất, tạo điều kiện đa dạng hóa cây trồng. Hiệu quả mang lại từ các công trình thủy lợi đã giúp Quảng Trị từng bước hình thành các vùng nông nghiệp quy mô tập trung, nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ tại các huyện Cam Lộ, Gio Linh, TP. Đông Hà, Đakrông...

Hệ thống thủy lợi tại Quảng Trị còn mở rộng diện tưới cho các ngành, nghề kinh tế khác như cấp nước cho Khu công nghiệp Quán Ngang (Gio Linh); Nhà máy sắn An Thái (Cam Lộ). Hiện nay, Quảng Trị đang nghiên cứu phương án lấy nước từ công trình thủy lợi Nam Thạch Hãn cấp nước cho Khu kinh tế Đông Nam Quảng Trị...

Ông Lê Quang Lam, Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi tỉnh Quảng Trị cho hay, việc ứng dụng vật liệu tiên tiến vào thiết kế, xây dựng công trình thủy lợi đã mang lại những kết quả tích cực, phù hợp với tình hình thực tế, hiệu quả trong điều kiện triển khai tại hiện trường khó khăn, rút ngắn thời gian thi công. Có thể kể đến việc sử dụng tràn “Mỏ vịt” để dâng đầu nước trên kênh thay cho cống điều tiết tại một số tuyến kênh chính, kênh nhánh tại công trình thủy lợi Trúc Kinh; sử dụng công nghệ và phương pháp bê tông tự lèn trong thi công hạng mục cống áp lực của công trình thủy lợi Trúc Kinh. Sử dụng cửa van composite cho công trình đập ngăn mặn cống Bến Tám; xi phong Choi Thoan, Choi Nan, Mè Tré (Vĩnh Linh) và một số công trình thủy lợi nhỏ khác. Ứng dụng hệ thống điện khí hóa trong vận hành cửa van tại hồ Triệu Thượng 1, 2 của dự án WB5; ứng dụng hệ thống quản lý, theo dõi thông minh tại các công trình thủy lợi.

Tính đến nay, Quảng Trị đã đầu tư lắp đặt và khai thác hiệu quả hệ thống 25 trạm đo mưa tự động; ứng dụng các sản phẩm bản đồ chuyên ngành như bản đồ ngập lụt, bản đồ sạt lở, bản đồ hạn hán…; ứng dụng công nghệ thông tin qua phần mềm Google Earth, Map info vào xây dựng bản đồ hiện trạng công trình thủy lợi, đê điều, sạt lở bờ sông, bờ biển, nước sạch nông thôn và các thông số kỹ thuật kèm theo để hình thành cơ sở dữ liệu lĩnh vực thủy lợi.

Việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực thủy lợi đã góp phần nâng cao chất lượng công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành; cải thiện chất lượng cảnh báo, dự báo; nâng cao tính chủ động trong công tác chỉ đạo, điều hành ứng phó với các loại hình thiên tai.

Tuy nhiên, cũng theo ông Lê Quang Lam, mặc dù đã đạt được những kết quả tích cực nhưng phải thừa nhận là khoa học công nghệ vẫn chưa được áp dụng nhiều vào quá trình cơ cấu lại ngành nông nghiệp nói chung và lĩnh vực thủy lợi nói riêng.

Nhiều công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh Quảng Trị đã được ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong thi công xây dựng và vận hành. Ảnh: Võ Dũng.

Nhiều công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh Quảng Trị đã được ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong thi công xây dựng và vận hành. Ảnh: Võ Dũng.

Việc ứng dụng công nghệ tưới tiên tiến, tiết kiệm nước, đặc biệt là tưới thông minh chưa được áp dụng phổ biến vào quá trình tưới cho các loại cây trồng, nhất là cây lúa. Hạ tầng thủy lợi vẫn chưa thực sự đáp ứng với yêu cầu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ. Nguồn vốn bố trí hằng năm để thực hiện kiên cố hóa kênh mương, hiện đại hóa hệ thống thủy lợi nhỏ, thủy lợi nội đồng còn rất hạn chế.

Để hạ tầng thủy lợi và việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào vận hành, điều tiết các công trình thủy lợi, các địa phương cần tích cực huy động, lồng ghép các nguồn lực, đặc biệt là các dự án để ứng dụng khoa học công nghệ và nhân rộng các mô hình đã thực hiện hiệu quả, mở rộng ứng dụng thêm các khu vực mới.

Khuyến khích ứng dụng khoa học công nghệ trong lĩnh vực thủy lợi

“Trong thời gian tới, Chi cục Thủy lợi sẽ tiếp tục tham mưu công tác chỉ đạo, khuyến khích việc ứng dụng khoa học công nghệ vào vận hành tưới, tiêu phục vụ sản xuất, quản lý, khảo sát, thiết kế thi công và khai thác công trình thủy lợi; theo dõi, giám sát và cảnh báo, dự báo thiên tai. Chúng tôi sẽ hoàn thiện kế hoạch thực hiện việc áp dụng khoa học công nghệ vào lĩnh vực thủy lợi, phòng, chống thiên tai” – ông Quang Lam, Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi tỉnh Quảng Trị.

Xem thêm
Việt Nam chưa đủ thông tin đánh giá tác động của dự án Funan Techo

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng khẳng định Việt Nam chưa đủ thông tin để có thể đánh giá tác động của dự án Funan Techo.

Cảnh báo tình trạng xả nước thải ao tôm ra môi trường

Bạc Liêu cảnh báo tình trạng xả nước thải liên tục từ các ao nuôi tôm ra môi trường, nhất là các hộ nuôi tôm siêu thâm canh.

Du khách ở TP.HCM sắp được trải nghiệm xe điện

TP.HCM Sẽ có 70 xe điện được đưa vào phục vụ khách. Thời gian hoạt động từ 6-24 giờ hằng ngày, thí điểm trong 2 năm (từ quý II/2024 đến hết năm 2025).

Cựu binh Đồi A1 & ký ức 'máu trộn bùn non'

Tròn 70 chiến thắng Điện Biên Phủ nhưng những đồng đội, những nắm cơm, những chiến hào 'máu trộn bùn non'… vẫn còn mãi trong tâm trí nhà giáo ưu tú Đỗ Ca Sơn.

Bình luận mới nhất

Trong bài này, tác giả (sau đây xưng là Nattoi) để cập chủ yếu 03 vấn đề, trong đó chủ yếu tập trung cho giải quyết vấn đề số 1, hai vấn đề còn lại chỉ được nhắc đến: Một: Phương pháp thiết kế điều tiết lũ hiện hành chưa đưa thông số mực nước an toàn ở hạ du vào tính toán nên yêu cầu phòng chống lũ cho hạ du chưa được đảm bảo và không có tiêu chí để xác định hiệu quả vận hành giảm lũ. Vấn đề này đã được Nattoi giải quyết cả về mặt lý thuyết và thực hành (trình bày ở mục 3.4). Hai: Tiêu chí xác định MNCNTL, MNTNĐL không được công khai, minh bạch, làm cho việc kiến nghị điều chỉnh hạ thấp 2 mực nước đối với các hồ chứa thủy điện nhằm tăng dung tích trống phòng lũ là điều bất khả. Về vấn đề này (trình bày tại Mục 3.1), Nattoi chưa nêu cụ thể phương án giải quyết là để tập trung nội dung vào vấn đề số 1 như đã nêu, nhưng hướng giải quyết là đã có. Ba: Vấn đề bán con trâu mà tiếc sợi dây thừng: Thiết kế xây dựng đập, hồ chứa nước được tính toán an toàn ổn định lật, trượt đến mực nước lớn nhất thiết kế và kiểm tra với mực nước lớn nhất kiểm tra, cho phép giữ mực nước hồ không vượt quá mực nước lớn nhất kiểm tra nhưng lại chỉ cho phép sử dụng dung tích trống phòng lũ đến mực nước dâng bình thường là sự lãng phí ghê gớm trong đầu tư xây dựng và quản lý an toàn đập, hồ chứa nước. Hướng giải quyết vấn đề số 3 (trình bày tại Mục 3.2) vốn là tự nhiên đã có nhưng không được sử dụng vì không nghĩ đến giảm lũ cho hạ du.
+ xem thêm