Giáo sư Trần Văn Giàu (1911-2010) là nhân vật hội đủ uy tín cao nhất để nói về hoặc viết lại Cách mạng Tháng 8 ở Nam bộ.
Thế nhưng, thật đáng tiếc, trong di sản để lại của Giáo sư Trần Văn Giàu có quá ít tư liệu về dấu ấn lịch sử ấy. Trong “Tổng tập Trần Văn Giàu” được xuất bản vào năm 2006, do chính ông đọc và chỉnh lý thì cũng không có những trang về giai đoạn này.
Bộ sách “Chống xâm lăng” của Giáo sư Trần Văn Giàu gồm ba quyển “Nam Kỳ kháng Pháp”, “Bắc Kỳ kháng Pháp” và “Phong trào Cần Vương”. Còn bộ sách “Miền Nam giữ vững thành đồng” gồm bốn tập cho bốn khoảng thời gian, tập 1 từ 1954 đến 1960, tập 2 từ 1961 đến 1963, tập 3 từ 1963 đến 1965, và tập 4 từ 1965 đến 1975.
Vì sao Cách mạng Tháng 8 ở Nam bộ đã không xuất hiện trong tác phẩm của Giáo sư Trần Văn Giàu. Rất đơn giản vì lúc đó ông Trần Văn Giàu là Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Nam bộ.
Với sự tự trọng của một người cầm bút và của một nhà khoa học, ông Trần Văn Giàu không thể tự viết về vai trò cá nhân trong một bố cảnh xã hội đặc biệt. Ông Trần Văn Giàu có ý để cho người khác viết, nhằm khách quan hơn và có tính thuyết phục cao hơn.
Sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Phương Đông chuyên đào tạo những cán bộ cộng sản tại Liên Xô, ông Trần Văn Giàu về nước hoạt động cách mạng và nhanh chóng trở thành một lãnh tụ Nam bộ.
Thực dân Pháp đã phải ba lần bắt giam ông Trần Văn Giàu vào các năm 1933, 1935 và 1940. Lần lượt trải qua các nhà tù Khám Lớn, Côn Đảo và Tà Lài, ông Trần Văn Giàu rất được tín nhiệm trong giới trí thức cách mạng. Vì vậy, ngày 15/8/1945, Xứ ủy Nam Kỳ đã thành lập Ủy ban Kháng chiến Nam bộ do ông Trần Văn Giàu đứng đầu.
Ngày 20/8/1945, nhận được tin Cách mạng Tháng 8 đã thắng lợi ở Hà Nội, ông Trần Văn Giàu đã triệu tập một hội nghị mở rộng tại Chợ Đệm (Long An) để phát động khởi nghĩa. Đêm 22/8/1945, Cách mạng Tháng 8 ở Nam bộ bắt đầu bằng việc giành lấy chính quyền ở Tân An. Và đêm 24/8/1945 thì giành được chính quyền Sài Gòn một cách nhanh gọn và khéo léo.
Chiều 25/8/1945, trong cuộc mít tinh trước dinh Đốc lý Sài Gòn, ông Trần Văn Giàu với tư cách Chủ tịch Ủy ban Hành chánh lâm thời Nam Bộ, đã long trọng tuyên bố: “Đồng bào toàn dân. Hôm nay là ngày vẻ vang nhất trong lịch sử của Nam Bộ Việt Nam.
Giữa thanh thiên bạch nhật, chúng tôi, Ủy ban Hành chánh lâm thời, nhân danh toàn thể quốc dân Nam Bộ, tuyên bố trước mặt toàn cầu và trước mặt toàn thể quốc dân rằng: Chế độ Cộng hòa Dân chủ thành lập tại Nam Bộ Việt Nam.
Chúng tôi tuyên bố không thừa nhận chế độ Nam triều và cương quyết chống chế độ thực dân. Không một ngoại bang nào có thể viện lý do gì để bác bỏ được điều quyết định long trọng của đồng bào ta hoài bão lâu nay: Nước Việt Nam hoàn toàn độc lập. Thay mặt cho Mặt trận Việt Minh miền Nam, chúng tôi lãnh trách nhiệm nắm giữ chính quyền Nam Bộ, để đến ngày triệu tập xong Quốc hội, sẽ giao lại cho đại biểu toàn quốc”.
Chính sức mạnh của Cách mạng Tháng 8 tại Sài Gòn đã có những ảnh hưởng sôi sục khắp Nam bộ. Tại vùng Rạch Giá - Kiên Giang, nhà văn Sơn Nam (1926 - 2008) đã ghi lại trong hồi ký “Ở chiến khu 9” về việc người dân cùng nhau chuẩn bị cờ đỏ sao vàng và tuyên truyền khởi nghĩa: “Dịp này, anh em trao cho tôi một tập mỏng tư liệu nhan đề “Công tác cách mạng”, đại khái phải có năm bước: Điều tra, Tuyên truyền, Tổ chức, Huấn luyện, Tranh đấu…”.
Nhà văn Sơn Nam đã miêu tả hai bức tranh. Thứ nhất là sự thất thủ của quân Pháp: “Tôi may mắn chứng kiến cuộc đầu hàng có trật tự ở chợ Rạch Giá. Đồng bào ta sửng sốt vì đa số “ông Tây” trông lem luốc, đặc biệt râu của họ mọc quá nhanh, cái mặt đen thui, dưới cằm râu dài cỡ 10 cm.
Vài người cố lết đôi giày dơ dáy hoặc đi chân đất, “cà nhót” như vừa bị thương. Mấy bà đầm không trang điểm, bước đi hổn hển, quần áo lem lấm, tay xách giày dép. Họ như không còn muốn giữ thể diện với dân chúng.
Những người lớn tuổi ở chợ đã nhận ra: này là ông Cò rất hách dịch, nọ là viên chủ sự sở Đoan, kia là viên sếp Khám đường…”.
Thứ hai là sự bàn giao của quân Nhật: “Một Ủy ban khởi nghĩa đã đi ô tô đến Tòa Bố tỉnh để gặp viên tỉnh trưởng do người Nhật chỉ định. Sau nhiều phút cãi vã không gay go cho lắm, hắn ta chịu rút lui trong khi dân chúng kéo tới hô khẩu hiệu, gây sức ép như vũ bão.
Lính Nhật còn lai rai vài đứa, phần lớn dường như đã tự động gom về Sài Gòn để đầu hàng Đồng Minh. Riêng kho lúa gạo phía đầu Doi, chừng năm tên lính Nhật cứ ở đó, tử thủ, đồng bào gần đấy cho biết thỉnh thoảng chúng dùng dây xích khóa chân nhau, ngụ ý thề sinh tử để bảo vệ…”.