| Hotline: 0983.970.780

Nuôi cua biển quảng canh

Thứ Tư 02/06/2010 , 10:55 (GMT+7)

Cua biển rất thích hợp với vùng nước có độ mặn từ 0-30%o, dễ nuôi, vốn đầu tư không nhiều, sản xuất không đòi hỏi kỹ thuật cao, ít bệnh...

Ven biển ĐBSCL, cua biển là đối tượng thủy sản thích nghi trong môi trường sinh thái tự nhiên, tăng trưởng tốt ở vùng đất lung trũng, phèn chua... Cua biển rất thích hợp với vùng nước có độ mặn từ 0-30%o, dễ nuôi, vốn đầu tư không nhiều, sản xuất không đòi hỏi kỹ thuật cao, ít bệnh, nguồn giống có nhiều ở rừng ngập mặn ven biển và sản xuất nhân tạo, thức ăn chủ yếu là các loại cá biển rẻ tiền, chi phí thấp có thị trường tiêu thụ ổn định, hiệu quả kinh tế khá, cho thu nhập từ 25-28 triệu đồng/ha/vụ.

Hiện nay, toàn vùng có khoảng 20.000 ha nuôi cua biển, chủ yếu tập trung luân canh dưới chân ruộng muối, artemia, ao nuôi tôm sú và dưới tán cây rừng. Nuôi cua biển trong các mô hình trên thường bắt đầu từ tháng 4 - 7, thường nuôi loại cua yếm vuông cỡ 8-10 con/kg (khoảng 650-800 con/ha là phù hợp nhất). Nói về qui trình kỹ thuật nuôi cua biển, anh Thạch Hạt ở HTX tôm - muối Lai Hoà (huyện Vĩnh Châu – Sóc Trăng) cho biết: “Do ruộng sản xuất (tôm, muối) bằng phẳng nên không cải tạo nhiều, chỉ xiết cạn nước từ 7-10 ngày, bón vôi CaCO3 với 100 - 150 kg/ha, quan trọng nhất trong nuôi cua biển là phải xây dựng hàng rào bằng lưới cước cao từ 0,8 - 1 mét để không cho cua bò đi.  

Ao nuôi cua biển

Thả mật độ bình quân từ 1 - 1,5 m2/con là phù hợp nhất. Cua giống phải đồng cỡ, màu sáng đều không bị dị tật; luôn giữ mực nước ổn định từ 0,8 - 1 mét, độ pH từ 7 - 8,5, ao nuôi phải có nhiều bó chà các loại cây để cua trú ngụ trong thời gian lột xác; thức ăn là các loại cá tạp xay nhuyễn hoặc chặt khúc rửa sạch để trong sàn ăn (chiếm từ 8 - 10% trọng lượng cua), thường xuyên thay nước mới theo chu kỳ con nước kém để kích thích cua lột xác và giảm khẩu phần ăn trong thời kỳ cua lột xác”.

Còn anh Võ Thanh Ước, chủ nhiệm Hợp tác xã tôm-muối-artemia Vĩnh Phước (huyện Vĩnh Châu – Sóc Trăng), người đã đi đầu và khá thành công từ mô hình nuôi cua biển cho biết: “Năm nay là năm thứ 4 HTX triển khai mô hình nuôi cua biển trên ruộng muối và artemia từ vài ha ban đầu với năng suất 140 kg/ha đến nay đã nâng lên khoảng 300 ha với năng suất bình quân 260-290 kg/ha. Sau trên 4 - 5 tháng nuôi tất cả cua biển đều đạt 80% loại 1 (cua y), bán cho thương lái từ 100 - 120 ngàn đồng/kg, có thị trường tiêu thụ ổn định và xuất khẩu”.

Theo ông Nguyễn Hồng Thái, Chủ tịch UBND xã Ninh Thạnh Lợi A (huyện Hồng Dân – Bạc Liêu): “Dự kiến, năm nay, xã có trên 3.000ha (trong số 4.000ha đất sản xuất của xã) được bà con thả cua nuôi kết hợp với tôm sú. Mô hình tôm - cua kết hợp đang trở thành sự lựa chọn tối ưu của đa số nông dân với kết quả mang lại rất khả quan: tôm nuôi ít xảy ra dịch bệnh, cua tăng trưởng phát triển tốt. Mô hình này đã được nhân rộng ở nhiều địa phương trong vùng chuyển đổi của huyện”.

Tuy nhiên, vấn đề đáng quan tâm là nguồn giống nuôi chưa đáp ứng đủ nhu cầu do diện tích nuôi cua ngày càng mở rộng. Do cung không đủ cầu nên giá cua giống ngày một tăng cao. Cua giống thiên nhiên ở khu vực bãi bồi ven biển, khu vực cửa biển, cửa sông, trên các kênh rạch… trước đây rất nhiều, nhưng do người dân khai thác bừa bãi làm nguồn cua giống dần cạn kiệt. Để chủ động nguồn giống đáp ứng nhu cầu thả nuôi của người dân, Khoa thuỷ sản (Trường Đại học Cần Thơ) chủ động phối hợp với các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu nghiên cứu ương và thử nghiệm sinh sản cua biển giống nhưng vẫn chưa mang lại kết quả như mong muốn.

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm