| Hotline: 0983.970.780

Sắm cần câu...

Thứ Sáu 31/10/2014 , 08:20 (GMT+7)

Mặc dù lợi thế về địa lý, kinh tế, văn hóa, xã hội hơn hẳn các tỉnh khác của Tây Nguyên, nhưng với 43 dân tộc anh em sinh sống, tỉnh Lâm Đồng cũng đã phải nỗ lực rất nhiều.

Mục đích nhằm không ngừng nâng cao đời sống người dân nói chung, bà con dân tộc thiểu số (DTTS) nói riêng, làm đổi thay diện mạo các vùng nông thôn nghèo.

CẦM TAY CHỈ VIỆC

Đến huyện Lạc Dương, vùng đất nằm ngay dưới chân núi Langbiang, thấy rất nhiều mô hình kinh tế của bà con DTTS áp dụng khoa học kỹ thuật như nhà kính trồng rau, hoa.

Ðang thu hoạch những đóa hoa hồng, chuẩn bị giao cho khách theo đơn hàng, anh Phăng T’Sin, dân tộc K’Ho ở xã Đưng K’Nớ, nói: "Tôi được chính quyền cho học mấy lớp dạy kỹ thuật trồng hoa trong nhà kính, rồi học hỏi kinh nghiệm thực tế ở những làng hoa Ðà Lạt, nắm vững kỹ thuật rồi tôi về vay vốn làm nhà kính trồng hoa, kết quả tốt lắm. Tất cả quy trình sản xuất (SX) hoa hồng đều khép kín, có hệ thống tưới nước và tưới phân tự động”.

Anh T’Sin cho biết, mảnh vườn 4.000m2 do cha mẹ để lại, trước đây trồng lúa nước, làm mãi cũng chỉ đủ gạo ăn chứ không khá lên. Từ ngày làm mô hình nhà kính này, đời sống bắt đầu thay đổi. Giờ đây, vườn hoa hồng của anh đã cho thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm. Và mô hình SX này đã trở thành điểm đến cho các hộ đồng bào DTTS  trong và ngoài tỉnh học hỏi.

Cách nhà anh T’Sin không xa là mô hình nhà kính trồng hoa, rau công nghệ cao của gia đình anh K’Nam, dân tộc K’Ho. Vừa điều chỉnh hệ thống tưới nước tự động, anh K’Nam vừa giới thiệu: "Do có chút kiến thức cơ bản qua học nghề, tôi mạnh dạn chuyển đổi từ lúa nước sang trồng rau nhà kính, dâu tây. Ðó là sự quyết định sáng suốt".

Chỉ tay ra khu nhà kính tít tắp dọc thôn, anh K’Nam giới thiệu: Vườn của K’ran với bốn sào hoa cúc, cẩm chướng; vườn K'Bét hơn hai sào bông hồng, đều được canh tác theo hướng công nghệ cao.

Ðang tưới vườn cà phê mùa đơm trái, ông K’Ban ở xã Đan Phượng, huyện Lâm Hà cho hay: "Trước kia cà phê nhà mình chỉ được 3 tấn/ha. Sau này nhờ được cán bộ hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc mà bây giờ năng suất tăng gấp rưỡi, gấp đôi, cây ít bị bệnh hơn".

Anh Nông Văn Cửu, nông dân xã Lộc Thành, huyện Bảo Lâm khoe: "Ngoài nghề làm nông nghiệp, làng mình còn được học nghề may công nghiệp, đan len và đan dây bèo. Nhờ vậy mà đời sống của bà con từng bước được nâng lên".

Ông Nguyễn Quốc Kỳ, Phó Chủ tịch UBND huyện Lạc Dương, cho biết: "Lạc Dương có hơn 75% số người DTTS sinh sống. Chủ trương của huyện là dạy nghề phải sát thực tế. Khi học xong, người dân phải phát triển được trên chính đồng ruộng cũ của mình".

Năm 2013 và 6 tháng đầu năm 2014, Lạc Dương đã tổ chức được 26 lớp dạy nghề trồng, chăm sóc cà phê, rau, hoa cho gần 1.000 học viên, chủ yếu là đồng bào DTTS.

Giám đốc Trung tâm Nông nghiệp Lạc Dương Hoàng Xuân Hải cho biết: "Dựa vào trình độ, tập quán canh tác, chúng tôi chọn cách dạy "cầm tay chỉ việc", với 80% số nội dung thực hành trực tiếp trên mô hình, rất dễ nhớ và dễ áp dụng".

PHÁT HUY THÀNH QUẢ

Lâm Ðồng hiện có 44 cơ sở dạy nghề công lập và ngoài công lập đang hoạt động, với hơn 300 giáo viên, cán bộ kỹ thuật, nghệ nhân tham gia dạy nghề.

Từ năm 2010 đến nay, tỉnh đã tổ chức hơn 920 lớp đào tạo nghề nông thôn cho hơn 27 nghìn người, với 24 nghề thuộc ba nhóm ngành nghề chính là nông nghiệp, công nghiệp - xây dựng và dịch vụ. Trong đó, học viên là đồng bào DTTS chiếm hơn một nửa.

Tiếp tục phát huy những thành quả đạt được mấy năm qua, UBND tỉnh Lâm Ðồng đã phê duyệt "Ðề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại Lâm Ðồng, giai đoạn 2014 - 2020". Với mục tiêu, mỗi năm đào tạo khoảng 7.000 đến 10.000 lao động nông thôn. Trong đó, chú trọng ưu tiên các đối tượng chính sách, hộ nghèo, đồng bào DTTS...

Theo đánh giá của Sở Lao động - Thương binh & Xã hội tỉnh Lâm Ðồng, công tác dạy nghề tiếp tục gắn với nhu cầu của nhà nông và các chương trình phát triển kinh tế, xã hội địa phương.

Sau khi tham gia các khóa học nghề, bà con đã có những bước tiến rõ rệt từ kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng lực làm chủ máy móc, đến tác phong lao động. Nhờ vậy, có hơn 81% số học viên có việc làm sau khi tốt nghiệp hoặc tổ chức lại SX, cách thức làm ăn mới ngay trên quê hương mình.

Muốn xóa đói, giảm nghèo bền vững, tỉnh quyết định mở rộng đối tượng học nghề, tạo điều kiện cho bà con DTTS được theo nghề phù hợp với trình độ văn hóa, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương. 

Việc bảo tồn, phát triển các nghề truyền thống của đồng bào Cơ Ho, Chu Ru như: dệt thổ cẩm, làm gốm, nhẫn bạc... cũng được các địa phương mở lớp truyền nghề, nhưng dường như không còn "hợp thời" với thế hệ trẻ, khó khăn lại đến với công tác "bảo tồn và phát huy" giá trị văn hóa truyền thống.

MỘT SỐ VƯỚNG MẮC

"Công tác đào tạo nghề cho đồng bào DTTS của tỉnh đã có nhiều chuyển biến tích cực; đời sống của bà con vùng sâu, vùng xa ngày càng khởi sắc.

Tuy nhiên, vẫn còn một số vướng mắc như: cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề chưa đáp ứng yêu cầu, một số nơi chất lượng dạy nghề còn thấp; có sự chồng chéo trong chính sách ưu đãi đối với đồng bào các dân tộc, gây khó khăn trong khâu rà soát đối tượng học nghề; công tác tư vấn, hướng nghiệp học nghề chưa phù hợp với đặc thù vùng đồng bào DTTS nên khó thu hút học viên...

Ðào tạo nghề cho đồng bào, đầu tiên phải theo truyền thống, tập quán sinh hoạt của họ, rồi từng bước nâng cao mới hy vọng mang lại hiệu quả".

(Ông Lê Quang Hân, Trưởng phòng Dạy nghề, Sở Lao động - Thương binh -Xã hội tỉnh Lâm Ðồng)

 

Xem thêm
424 hộ nghèo tỉnh Ninh Bình được hỗ trợ xây dựng, sửa chữa nhà ở

Năm 2024, tỉnh Ninh Bình sẽ hỗ trợ hơn 37 tỷ đồng xây dựng, sửa chữa nhà ở cho 424 hộ nghèo, khó khăn trên địa bàn.

Hưng Yên: Nhiều giải pháp đảm bảo vệ sinh môi trường nông thôn

Những giải pháp dưới đây vừa giúp giảm căn bản ô nhiễm môi trường, vừa tạo ra lượng lớn phân hữu cơ chất lượng tốt chăm bón cho cây trồng.

Bến Tre bán sản phẩm OCOP trên Youtube, Tiktok

Hội Nông dân Bến Tre vừa có chương trình ghi nhớ hợp tác để thúc đẩy thương mại số sản phẩm OCOP.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm