| Hotline: 0983.970.780

Sản xuất lúa hàng hoá theo GAP

Thứ Tư 19/01/2011 , 10:21 (GMT+7)

Nhằm nâng cao chất lượng, giá trị lúa hàng hóa cho nông dân, Trung tâm KNKN Kiên Giang đã triển khai chương trình sản xuất lúa theo hướng GAP trên địa bàn các huyện trọng điểm về nông nghiệp. Qua 2 năm triển khai, chương trình này đã khẳng định hiệu quả kinh tế và được đông đảo bà con nông dân đăng ký tham gia.

Nhiều năm qua nhờ được tiếp cận và thụ hưởng những chủ trương, chính sách đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn nên trình độ sản xuất của bà con nông dân có nhiều tiến bộ, đời sống tinh thần và vật chất được nâng lên. Ở lĩnh vực trồng trọt, những năm qua ngành nông nghiệp đã tập trung đẩy mạnh sản xuất lúa theo hướng GAP nhằm gia tăng chất lượng lúa gạo bằng cách sản xuất theo những yêu cầu và đòi hỏi của quy trình GAP.

Theo đó, sản phẩm lúa gạo làm ra không chứa dư lượng hóa chất và vi sinh vật gây hại. Đồng thời sản phẩm phải đảm bảo an toàn từ sản xuất đến tiêu thụ, truy nguyên được nguồn gốc. Từ những định hướng trên, vụ hè thu 2009 Trung tâm KNKN Kiên Giang bước đầu thử nghiệm xây dựng mô hình sản xuất lúa theo hướng GAP trên quy mô 80ha ở TP Rạch Giá và huyện Hòn Đất. Mục tiêu chính của chương trình là hướng nông dân tiếp cận 4 tiêu chí của GAP gồm: sản phẩm được an toàn và có chất lượng, an toàn cho người sản xuất, bảo vệ môi trường và truy tìm được nguồn gốc sản phẩm. Tạo thói quen cho nông dân trong việc lập sổ ghi chép quá trình sản xuất lúa và chuyển giao, ứng dụng đồng bộ nhiều biện pháp kỹ thuật trong canh tác lúa chất lượng cao…

 Việc ứng dụng tốt quy trình sản xuất lúa theo hướng GAP đã giúp nông dân giảm được 50% lượng giống, giảm chi phí phân bón, thuốc BVTV và công phun xịt (khoảng 1 triệu đồng/ha) mà năng suất lúa vẫn đạt 5,2 tấn/ha/vụ. Từ đó, góp phần hạ giá thành sản xuất lúa còn 2.607 đồng/kg.

Từ kết quả khả quan trong vụ hè thu 2009; trong năm 2010 Trung tâm tiếp tục triển khai 140ha ở 3 địa điểm là TP Rạch Giá, huyện Giồng Riềng và Hòn Đất. Kết quả bước đầu của vụ hè thu 2010 cho thấy: Mô hình sản xuất lúa theo hướng GAP đã áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, hướng dẫn người dân ghi chép chi phí sản xuất để hạch toán kinh tế và có thể truy nguyên nguồn gốc sản phẩm. Giá thành sản xuất lúa còn 2.458đồng/kg, thấp hơn so với đối chứng 674 đồng và lãi cao hơn 5 triệu đồng/ha.

Nhằm khảo nghiệm trên các vùng sinh thái khác nhau trong tỉnh, Trung tâm còn triển khai xây dựng mô hình sản xuất lúa mùa Một Bụi lùn trắng theo hướng Global GAP trên địa bàn huyện An Minh và U Minh Thượng. Với mục tiêu tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm, đồng thời hướng đến việc phục tráng và xây dựng thương hiệu lúa mùa Kiên Giang. Trong vụ mùa 2010 – 2011, Trung tâm đã triển khai thử nghiệm trên diện tích 40ha, yêu cầu của mô hình là phải đạt 33/54 điểm kiểm soát (tiêu chí), trong đó có 22 điểm bắt buộc và 5 điểm khuyến khích thực hiện.

Mặc dù thời điểm xuống giống trễ hơn so với những năm trước do ảnh hưởng của nắng hạn và xâm nhập mặn nhưng nhìn chung diện tích các trà lúa đều phát triển tốt. Các tiêu chí như ghi chép sổ sách, sử dụng phân bón, thuốc BVTV… nông dân thực hiện tốt, đạt yêu cầu. Bên cạnh đó một số điểm kiểm soát đạt tỷ lệ rất thấp, chủ yếu là các điểm liên quan đến cơ sở vật chất như nhà vệ sinh tự hoại, kho chứa thuốc BVTV, nơi trộn và lưu giữ phân bón, các công việc ghi chép phức tạp… do đời sống vật chất và trình độ dân trí trong khu vực còn hạn chế.

Kiên Giang với diện tích sản xuất lúa hàng năm hơn 600.000 ha, nếu 50% diện tích áp dụng tốt quy trình sản xuất theo hướng GAP thì nông dân có thêm nguồn thu nhập hàng trăm tỷ đồng từ việc tiết kiệm giống, sử dụng phân bón, thuốc BVTV hợp lý.
Về hiệu quả kinh tế cho thấy, so với diện tích lúa mùa đại trà thì năng suất mô hình đạt cao hơn, giá lúa mùa cao hơn lúa ngắn ngày 1.000 đồng/kg. Đặc biệt lúa mùa Một Bụi lùn trắng còn có khả năng chống chịu phèn mặn cao nên hạn chế rủi ro do điều kiện bất lợi của thời tiết. Về mặt xã hội đã tác động đến ý thức của người dân, hướng nông dân sản xuất theo xu hướng nông nghiệp sạch và nắm được các biện pháp phục tráng giống đơn giản nhằm duy trì và xây dựng thương hiệu cho lúa mùa Một Bụi lùn trắng cho vùng U Minh Thượng.

Qua 2 năm triển khai trên các vùng sinh thái khác nhau trong tỉnh, mô hình sản xuất lúa theo hướng GAP đã mang lại kết quả khả quan, được nông dân trong tỉnh hưởng ứng và lãnh đạo tỉnh nhà đặc biệt quan tâm. Sở NN-PTNT Kiên Giang chỉ đạo Trung tâm KNKN Kiên Giang xây dựng đề án “Sản xuất lúa theo hướng GAP năm 2011”. Mô hình sẽ thực hiện một số nội dung chủ yếu như gieo sạ thưa, đồng loạt, né rầy, sử dụng lúa giống cấp xác nhận, giống lúa có năng suất, phẩm chất tốt và chống chịu sâu bệnh. Hướng dẫn nông dân sử dụng phân bón cân đối, hợp lý; dùng thuốc BVTV theo 4 đúng, tưới nước tiết kiệm theo từng giai đoạn sinh trưởng, tăng cường cơ giới hoá để giảm thất thoát trong khâu thu hoạch, phơi sấy, tồn trữ…

 Nông dân tham gia phải thực hiện tốt việc ghi chép sổ tay sản xuất theo hướng Global GAP, tạo nơi tồn trữ phân bón, thuốc BVTV, nơi pha thuốc BVTV tập trung, nhà vệ sinh tự hoại, tủ thuốc gia đình… Dự kiến mỗi vụ sẽ triển khai 1.000ha, trong đó Tân Hiệp 400ha, Giồng Riềng 200ha, Gò Quao 100ha, Châu Thành 100ha, Rạch Giá 100ha và hai huyện An Minh, An Biên mỗi huyện 50ha.

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cao điểm phòng trừ sâu cuốn lá nhỏ hại lúa xuân vào dịp nghỉ lễ 30/4

Theo Trung tâm BVTV phía Bắc, thời điểm phòng trừ tập trung sâu cuốn lá nhỏ từ 25/4 - 5/5. Sau khi phun lần 1, nếu mật độ còn cao tổ chức phun trừ lần 2.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm