| Hotline: 0983.970.780

Thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ trong thủy lợi

Thứ Hai 18/08/2014 , 09:36 (GMT+7)

Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Cao Đức Phát, hôm qua (17/8) đã chủ trì Hội nghị ứng dụng KHCN phục vụ đề án tái cấu trúc ngành thủy lợi và nâng cao hiệu quả quản lý khai thác công trình thủy lợi.

* Xã hội hóa đầu tư công trình thủy lợi

Báo cáo của Tổng cục Thủy lợi cho biết, Đề án tái cơ cấu (TCC) ngành thủy lợi được xây dựng trong bối cảnh nguồn lực nhà nước rất hạn chế.

Vì vậy nâng cao hiệu quả khai thác các hệ thống công trình thủy lợi hiện có và ứng dụng KHCN trong thủy lợi để thực hiện các biện pháp tưới tiêu, tiết kiệm nước, bảo đảm yêu cầu phát triển nền nông nghiệp Việt Nam là rất cần thiết.

Bà Lê Thị Kim Cúc, Vụ trưởng Vụ KHCN và hợp tác quốc tế (Tổng cục Thủy lợi) cho rằng, một trong những mục tiêu của Đề án TCC ngành thủy lợi là nhằm phát triển một nền nông nghiệp chủ động tưới, tiêu theo hướng hiện đại.

Đẩy mạnh trên diện rộng các giải pháp tưới tiên tiến, tiết kiệm nước cho các cây trồng cạn chủ lực: cà phê, hồ tiêu, chè, điều, mía, cây ăn quả, rau, hoa màu…

Đề án đưa ra mục tiêu đến năm 2020 sẽ có 500.000 ha cây trồng cạn chủ lực được tưới tiên tiến, tiết kiệm nước.

Cũng về vấn đề này, theo PGS.TS Nguyễn Vũ Việt (Viện Khoa học Thủy lợi VN) thì cần đẩy mạnh nghiên cứu áp dụng công nghệ tưới tiết kiệm nước cho cây lúa theo phương thức canh tác tiên tiến (SRI, 3 giảm, 3 tăng, 1 phải 5 giảm, nông – lộ - phơi) và giảm phát thải nhà kính.

Đề cập đến nguồn vốn đầu tư cho thủy lợi, ông Trần Quang Hoài, Trưởng ban quản lý Trung ương các dự án thủy lợi (CPO) cho hay, dự án thủy lợi thời gian tới phải hướng đến mục tiêu hỗ trợ xóa đói giảm nghèo, nâng cao chuỗi giá trị gia tăng, bảo vệ môi trường, thích ứng với BĐKH.

“Muốn vậy, các công trình thủy lợi phải đáp ứng nhu cầu cơ giới hóa trong SXNN hướng đến phục vụ cánh đồng lớn.

Các dự án thủy lợi phải hướng đến thích ứng tác động bất lợi do BĐKH gây ra trong 20 và 50 năm tới. Các hệ thống tưới tiêu cần phải góp phần giảm thiểu tác động của ô nhiễm từ đô thị và KCN đổ vào các vùng tưới, vùng nuôi trồng thủy sản”, ông Hoài phân tích.

Ở khía cạnh khác, ông Lê Đình Sơn, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh cho rằng, cần thay đổi hình thức đầu tư thủy lợi vì lâu nay chúng ta cứ dựa vào nguồn ngân sách là chính.

Tại Hà Tĩnh đã áp dụng hình thức xã hội hóa cho một công trình thủy lợi có tổng mức đầu tư gần 1.000 tỷ đồng, trong đó nhà nước chỉ hỗ trợ được 29%, phần còn lại do DN đứng ra làm.

“Thẩm định được năng lực tài chính và kỹ thuật xây dựng tốt của DN thì nhà nước sẽ tiết giảm được rất nhiều thời gian và tiền của cho công trình ngốn hàng nghìn tỷ đồng. Chỉ trong thời gian 430 ngày mà DN đã làm xong hầm tuynel.

“Vấn đề an toàn hồ đập cần phải xây dựng khung quản lý. Phải dự báo được lưu lượng dòng chảy đến. Chúng ta không thể cứng nhắc trong việc vận hành kỹ thuật thiết kế mà cần linh hoạt và có kinh nghiệm dự báo. Làm tốt khâu này chính là hạn chế việc xả lũ khiến hạ lưu bị ngập úng nặng nề. Bài học ở hồ Vực Mấu (Nghệ An) rõ ràng anh em vận hành đúng kỹ thuật đấy nhưng thiệt hại phía hạ lưu thì quá nặng nề” – Thứ trưởng Hoàng Văn Thắng lưu ý.

Trong khi đó, ở một công trình khác do nhà nước đầu tư đã 4 năm rồi mà đến nay chưa làm xong 200 mét hầm tuynel. Tôi cho rằng, xã hội hóa đầu tư công trình thủy lợi là cần thiết và hiệu quả. Nhà nước đứng ra giám sát chặt chẽ”, ông Sơn kiến nghị.

Phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Hoàng Văn Thắng nhấn mạnh, các biện pháp thủy lợi là khâu cơ bản trong chuyển dịch cơ cấu cây trồng, nâng cao chất lượng và sản lượng các loại cây trồng cạn đang có lợi thế cạnh tranh.

“Mặc dù đạt được nhiều thành tựu nhưng thủy lợi đã bộc lộ một số hạn chế, đặc biệt là những vấn đề về khai thác, về thể chế. Những vấn đề đặt ra trong TCC thủy lợi là ứng dụng KHCN mang lại hiệu quả cao: tưới tiên tiến cho cây trồng cạn; thủy lợi phục vụ cho thủy sản; ứng dụng công nghệ tiên tiến cộng với nâng cao nhận thức của nhân dân trong phòng chống thiên tai…”, ông Thắng nói.

Kết luận Hội nghị, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Cao Đức Phát cho rằng, từ trước đến nay, chúng ta nói đến KHCN trong thủy lợi là nói đến công trình nghiên cứu của các viện, trường. Nhưng hôm nay, đã có sự hiện diện của nhiều DN. Đây là một hình thức xã hội hóa nghiên cứu và ứng dụng KHCN trong lĩnh vực thủy lợi.

“Các đề tài, công trình nghiên cứu đã quan tâm nhiều đến lĩnh vực đồng ruộng, thủy sản, cây công nghiệp. Đây là một sự kỳ vọng trong việc tăng năng suất cây trồng. Nghiên cứu về giống có thể chỉ tăng 5-10%, nhưng một hệ thống tưới thông minh có thể làm cây trồng tăng năng suất 30-50%”, Bộ trưởng nhấn mạnh.

Theo Bộ trưởng, trong thời gian tới, các cơ quan chuyên môn cần nhanh chóng xây dựng bộ tiêu chuẩn, quy chuẩn Nhà nước. Đề nghị các DN, viện, trường đăng ký công trình để được công nhận tiêu chuẩn. Đồng thời, cũng cần đăng ký các tiến bộ kỹ thuật và công bố bản quyền.

Ngoài ra, gấp rút nghiên cứu quy trình tưới mới trên cơ sở các đề tài nghiên cứu đã có. “Tổng cục Thủy lợi đề xuất chính sách hỗ trợ sản xuất các thiết bị phục vụ ứng dụng KHCN thủy lợi, từ đó góp phần thúc đẩy lĩnh vực này phát triển hơn nữa”, Bộ trưởng yêu cầu.

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm