Bộ trưởng NN-PTNT Nguyễn Xuân Cường nhận định các thách thức của ngành nông nghiệp trong hội nghị sáng 5/12. |
ISG 2019 do Bộ NN-PTNT tổ chức thông qua Chương trình hỗ trợ Quốc tế - ISG với sự tham gia của Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Nguyễn Xuân Cường, Giám đốc Ngân hàng thế giới (WB) tại Việt Nam Ousmane Dione, Giám đốc vùng của Tổ chức công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) Stein Hansen, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Quốc Doanh cùng nhiều đại diện các bộ, ngành và đại sứ các nước.
Đây là sự kiện giữa Bộ NNT-PTNT với các đối tác quốc tế để trao đổi, chia sẻ các định hướng chính sách, các ưu tiên nhằm đẩy mạnh hợp tác và tăng cường điều phối các nguồn lực, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nông nghiệp Việt Nam.
Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cho biết, những năm qua, Việt Nam có được những thành tựu nông nghiệp đáng trân trọng, trong đó không thể thiếu được sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế. Nhưng vẫn còn đó 3 thách thức lớn với ngành nông nghiệp của Việt Nam.
“Về cơ bản, kinh tế nông nghiệp của chúng ta vẫn dựa trên quy mô hộ nhỏ lẻ. Thứ hai là thách thức từ biến đổi khí hậu, mặc dù ảnh hưởng chung đến nền kinh tế nhưng khu vực có nguy cơ tổn thương lớn nhất lại là nông nghiệp. Vấn đề thứ ba mà ngành nông nghiệp phải đối mặt là hội nhập toàn cầu”, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường nêu rõ.
Để giải quyết 3 vấn đề trên, Việt Nam cần tái cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất tập trung các nhóm sản phẩm lợi thế, ứng dụng khoa học công nghệ và tận dụng được sự hợp tác từ các quốc gia, tổ chức quốc tế.
Về ISG 2019, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cho rằng, hội nghị lựa chọn được nội dung xuyên suốt từ vùng nguyên liệu, chế biến cho đến phát triển thị trường. Theo ông, Việt Nam có năng lực sản xuất tốt, có thứ hạng trên thế giới nhưng hiệu quả chưa cao, do chỉ mới tiếp cận được ở các sản phẩm thô. Điều này gây ra nhiều mối lo về rủi ro thị trường, lãng phí tài nguyên và lãng phí sản phẩm.
Hiện nay, nông sản Việt Nam đã đi đến 185 nước trên thế giới với giá trị trên 40 tỷ USD mỗi năm, Bộ trưởng Cường cho rằng đây là một bước tiến lớn nhưng vấn đề là hầu hết những thị trường đã mở lại chưa bền vững.
Do đó, ông hy vọng ISG 2019 sẽ giúp Việt Nam có được nhiều kinh nghiệm hay cũng như khuyến nghị, ý kiến đề xuất để phát huy tốt hơn tiềm năng, cơ hội của ngành nông nghiệp Việt Nam.
Giám đốc Ngân hàng thế giới (WB) tại Việt Nam Ousmane Dione phát biểu tại hội nghị. |
Giám đốc WB tại Việt Nam Ousmane Dione cho rằng, mặc dù đối mặt với nhiều khó khăn trong năm 2019, ví dụ như dịch tả lợn châu Phi nhưng ngành nông nghiệp Việt Nam vẫn có mức tăng trưởng ấn tượng, đạt hơn 33 tỷ USD trong 10 tháng đầu năm, tăng 1,6% so với cùng kỳ 2018.
Tuy nhiên, ông Dione cảnh báo đã xuất hiện dấu hiệu bất ổn định trong các hàng hóa xuất khẩu truyền thống của Việt Nam. Điều này cho thấy, khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu cả về giá trị lẫn khối lượng của nông sản Việt là không chắc chắn. Do đó, Việt Nam cần tiếp tục nỗ lực để tăng cường khả năng cạnh tranh, phù hợp với tính biến đổi không ngừng của thị trường quốc tế.
Theo Giám đốc WB Việt Nam, để đạt được những tăng trưởng như trên, chúng ta đã phải đánh đổi bằng những vấn đề môi trường như phá rừng, mất cân bằng sinh học, thoái hóa đất, ô nhiễm nước hay tăng hàm lượng khí thải nhà kính. Bên cạnh đó là nhiều thất bại về thị trường, khiếm khuyết về hệ thống tổ chức sản xuất, thương mại.
Phát biểu tại hội nghị, Giám đốc vùng UNIDO Stein Hansen cho rằng Việt Nam đang có điều kiện thuận lợi khi có nền chính trị ổn định, vị trí địa lý tốt và lực lượng lao động dồi dào. Nền kinh tế nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng 2,89%, cao nhất từ 2012-2018, đóng góp 0,36% vào tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế.
Theo ông Hansen, nền công nghiệp chế biến nông sản đang đóng góp rất nhiều vào giá trị của hàng hóa xuất khẩu ở các nước phát triển, thay vì xuất khẩu nguyên liệu thô như các nước đang phát triển.
“Các nước có thu nhập cao tạo ra 200 USD giá trị gia tăng với 1 tấn nông sản qua chế biến trong khi các quốc gia đang phát triển chỉ có thể tạo ra giá trị gia tăng 50 USD”, Giám đốc vùng UNIDO lấy ví dụ.
Do đó, UNIDO mong muốn giúp Việt Nam thúc đẩy cơ hội kinh doanh bền vững và bao trùm cho người nghèo ở nông thôn thông qua việc phát triển chuỗi giá trị nông sản, tăng cường liên kết sản xuất, tiếp cận thị trường.
Cục Chế biến và Phát triển thị trường Nông sản ký kết thỏa thuận thực hiện dự án “Nâng cao chất lượng và năng lực tuân thủ chất lượng của chuỗi giá trị xoài ở ĐBSCL” với UNIDO Việt Nam. |
Sau buổi thảo luận, Phó Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường Nông sản Trần Văn Công và đại diện UNIDO Việt Nam, bà Lê Thị Thanh Thảo đã ký kết thỏa thuận thực hiện dự án “Nâng cao chất lượng và năng lực tuân thủ chất lượng của chuỗi giá trị xoài ở ĐBSCL”.
Năm 2019, Việt Nam bắt đầu tham gia các Hiệp định thuơng mại tự do (FTA) thế hệ mới, bên cạnh những cơ hội, nông nghiệp cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức đòi hỏi ngành phải tiếp tục cơ cấu lại để tăng cường năng lực cạnh tranh, tạo thêm nhiều giá trị gia tăng.
Cùng với những biến động với nền kinh tế thế giới, rào cản kỹ thuật, thương mại ở các nước nhập khẩu ngày càng tăng cao. Do đó, việc tổ chức lại sản xuất, nâng cao chất lượng, phát triển chế biến, mở cửa thị trường và khắc phục các hàng rào kỹ thuật là vấn đề cấp thiết đối với ngành nông nghiệp Việt Nam.
Để đáp ứng những nhu cầu trên cần phải đẩy mạnh xây dựng vùng nguyên liệu bền vững, hạ tầng nông nghiệp, vận chuyển, nâng cấp công nghệ chế biến, phát triển hệ thống phân phối nông sản... Điều này không chỉ đòi hỏi nỗ lực của ngành nông nghiệp mà cần sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, doanh nghiệp và các thành phần trong chuỗi giá trị sản xuất nông nghiệp.
ISG 2019 tập trung vào các vấn đề chính là thảo luận, đề xuất các khuyến nghị chính sách và giải pháp tháo gỡ khó khăn để phát triển vùng nguyên liệu bền vững, nâng cao năng lực chế biến và tiếp cận thị trường cho nông sản Việt Nam.
Ngoài ra, hội nghị là nơi các đối tác quốc tế chia sẻ kinh nghiệm, mô hình thành công từ các chương trình, dự án trong việc xây dựng vùng nguyên liệu bền vững, thúc đẩy chế biến, nâng cao giá trị của sản phẩm và đáp ứng các yêu cầu của thị trường khi thực hiện các FTA mới.