| Hotline: 0983.970.780

Trăn trở Quảng Ngãi

Thứ Tư 08/12/2010 , 10:45 (GMT+7)

Thật khó tin, một tỉnh còn nhiều khó khăn như Quảng Ngãi nhưng trong 5 năm qua, số lượng công trình cấp nước đã được xây dựng lên tới 161.

Thật khó tin, một tỉnh còn nhiều khó khăn như Quảng Ngãi nhưng trong 5 năm qua, số lượng công trình cấp nước đã được xây dựng lên tới 161 công trình. Đến cuối năm 2010, tỉnh Quảng Ngãi đã có gần 85% người dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh, trong đó gần 65% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch theo tiêu chuẩn 09 của Bộ Y tế.

Đến nay, gần 165.463 hộ dân nông thôn (70% dân số) ở Quảng Ngãi cũng đã có hố xí hợp vệ sinh. Nhiều hộ chăn nuôi phân tán đã xây dựng được chuồng trại hợp vệ sinh, hầm biogas và hố ủ phân cũng được nhân dân quan tâm xây dựng. Trong 5 năm qua đã có gần 2.000 hầm biogas được nhân dân xây dựng từ sự hỗ trợ kinh phí của Chương trình NS- VSMTNT và chương trình khí sinh học. Từ những kết quả này đã tạo ra môi trường và cảnh quan ở nông thôn ngày một sạch sẽ hơn, sức khoẻ của người dân được đảm bảo.

Ông Nguyễn Văn Thuộc, Giám đốc TT NS- VSMTNT Quảng Ngãi cho biết: Có được những kết quả này là nhờ trong 5 năm thực hiện chương trình giai đoạn 2006 - 2010, tỉnh Quảng Ngãi đã quyết liệt tập trung chỉ đạo việc huy động các nguồn lực để đầu tư, kể cả vốn vay ưu đãi, đồng thời Quảng Ngãi đã dành một phần vốn của các Chương trình 135, 134, Chương trình định canh - định cư, Chương trình 30a và các chương trình viện trợ của các tổ chức quốc tế đầu tư lồng ghép cho Chương trình NS- VSMTNT.

Tổng kinh phí đầu tư cho Chương trình NS- VSMTNT trong 5 năm qua đạt 110,3 tỷ đồng, trong đó nguồn vốn đầu tư trực tiếp của Chương trình NS- VSMNT từ ngân sách trung ương trong 5 năm qua là 53,670 tỷ đồng, còn lại là nguồn vốn địa phương, chương trình lồng ghép và các tổ chức quốc tế tài trợ, bên cạnh đó nguồn vốn người dân tự đầu tư khoảng 72 tỷ đồng.

Qua 10 năm thực hiện (2000 - 2010),  Chương trình NS- VSMTNT trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đã đạt được kết quả to lớn, tuy nhiên theo ông Thuộc thì trong quá trình thực hiện chương trình đã bộc lộ nhiều khó khăn, vướng mắc nhất là quy định về nguồn vốn xây dựng các công trình cấp nước và công trình vệ sinh do Nhà nước và nhân dân cùng đóng góp. Nhưng người dân nông thôn của Quảng Ngãi còn rất nghèo, do đó khả năng huy động sức dân đóng góp cho các dự án cấp nước sinh hoạt nông thôn rất hạn chế.

Trước việc chậm trễ thanh toán, cuối năm 2009 đơn vị thi công là Cty TNHH Xây lắp Hữu Phước đã kiện Trung tâm NS- VSMTNT Quảng Ngãi ra Toà Kinh tế và toà đã tuyên án Trung tâm Nước sạch Quảng Ngãi phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền còn nợ Cty Hữu Phước và phải tính lãi theo lãi suất ngân hàng. Ông Thuộc cho hay, do không thu được nguồn vốn từ người dân đóng góp nên đơn vị này không thể thi hành án được.
Nhiều công trình hoàn thành đưa vào sử dụng qua nhiều năm nhưng phần vốn đóng góp của dân không thực hiện được. Cụ thể công trình cấp nước xã Nghĩa Kỳ, huyện Tư Nghĩa đã đưa vào sử dụng được hơn 5 năm nay, công trình có tổng vốn đầu tư 835 triệu đồng, trong đó phần vốn do người dân đóng góp là 149,7 triệu đồng (20% giá trị công trình), tuy nhiên địa phương này đến nay vẫn chưa thu được một đồng nào để thanh toán cho bên thi công.

Còn công trình cấp nước Tịnh Khê, Tịnh Kỳ (huyện Sơn Tịnh) đã đưa vào sử dụng cũng đã hơn 5 năm và số tiền người dân đóng góp còn nợ Trung tâm nước là 162 triệu đồng, hay như công trình cấp nước xã Tịnh Hoà số vốn người dân đóng góp lên tới trên 402 triệu đồng nhưng nhiều năm qua người dân cũng chưa đóng góp được phần vốn trên. Theo ông Thuộc, hiện có hàng chục công trình cấp nước đã xây dựng nhiều năm nay trong đó số vốn người dân còn nợ Trung tâm nước để Trung tâm thanh toán cho bên thi công lên tới trên 1,5 tỷ đồng.

Ông Thuộc cho biết: Do hợp đồng xây dựng chúng tôi ký với bên thi công nên chúng tôi có nghĩa vụ phải thanh toán cho họ. Tuy nhiên do không thu được nguồn vốn do người hưởng lợi đóng góp nên chúng tôi đã bị một số đơn vị thi công kiện ra toà án do chậm thanh toán. Điển hình như công trình cấp nước xã Tịnh Thiện, sau khi xây dựng mới và nâng cấp mở rộng tổng số vốn đầu tư cho công trình này gần 900 triệu đồng, trong đó người dân hưởng lợi đóng góp 180 triệu đồng, mặc dù trước khi đầu tư xây dựng UBND xã Tịnh Kỳ đã có văn bản cam kết thu khoản kinh phí do người dân đóng góp. Công trình này đưa vào sử dụng từ tháng 4/2004 đến nay nhưng UBND xã Tịnh Thiện cũng chưa thu được một đồng nào.

Xem thêm
424 hộ nghèo tỉnh Ninh Bình được hỗ trợ xây dựng, sửa chữa nhà ở

Năm 2024, tỉnh Ninh Bình sẽ hỗ trợ hơn 37 tỷ đồng xây dựng, sửa chữa nhà ở cho 424 hộ nghèo, khó khăn trên địa bàn.

Hưng Yên: Nhiều giải pháp đảm bảo vệ sinh môi trường nông thôn

Những giải pháp dưới đây vừa giúp giảm căn bản ô nhiễm môi trường, vừa tạo ra lượng lớn phân hữu cơ chất lượng tốt chăm bón cho cây trồng.

Bến Tre bán sản phẩm OCOP trên Youtube, Tiktok

Hội Nông dân Bến Tre vừa có chương trình ghi nhớ hợp tác để thúc đẩy thương mại số sản phẩm OCOP.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm