| Hotline: 0983.970.780

Trồng đậu tương không cần phân urê

Thứ Sáu 09/12/2016 , 09:40 (GMT+7)

Nếu hạt giống đậu tương được xử lý bằng các chế phẩm vi sinh, cây đậu tương sẽ tự cố định đạm sau khoảng 2 tuần gieo trồng và không phải bón bổ sung urê, năng suất tăng từ 5 - 10% trong khi chi chí chỉ bằng 10% so với bón urê.


Mô hình đậu tương DT2008 ứng dụng chế phẩm sinh học xử lý hạt trước khi gieo trồng tại Vĩnh Phúc
 

Theo số liệu thống kê của Cục Trồng trọt, Bộ NN-PTNT, diện tích đậu tương bình quân hàng năm của Việt Nam khoảng trên 100.000ha với lượng urê bón vào đất dao động từ 8.000 - 10.000 tấn, vừa gây ô nhiễm môi trường lại tăng giá thành sản xuất, giảm hiệu quả kinh tế.

Nhằm giảm lượng urê bón vào đất, giảm chi phí vật tư khi sản xuất đậu tương tại Việt Nam, thông qua dự án “Tăng cường năng lực sản xuất đậu tương bằng kỹ thuật sinh học và trao đổi nguồn gen” do Bộ Ngoại giao Achetina tài trợ, Viện Công nghệ nông nghiệp Quốc gia Achentina đã chuyển giao một số loại chế phẩm sinh học Rizobacter, Palaversich, Feaguri,… có chứa các loại vi khuẩn cho Viện Di truyền Nông nghiệp thử nghiệm trong điều kiện canh tác tại Việt Nam.

Theo các nhà khoa học Achentina, bình thường cây đậu tương có khả năng tự cố định đạm tự do trong không khí sau khoảng 3 tuần gieo trồng, người nông dân phải bón bổ sung khoảng 80 - 100kg đạm urê cho 1ha. Tuy nhiên, nếu hạt giống được xử lý bằng các chế phẩm vi sinh, cây đậu tương sẽ tự cố định đạm sau khoảng 2 tuần gieo trồng và không phải bón bổ sung urê, năng suất vẫn tăng từ 5 - 10% trong khi chi chí chỉ bằng 10% so với bón urê.

Chính vì vậy, tại các nước sản xuất đậu tương hàng đầu trên thế giới như Achentina, Brazil, Mỹ… xử lý hạt giống bằng các chế phẩm sinh học trước khi gieo trồng nhằm tăng nốt sần đậu tương và phòng trừ nấm bệnh là một trong những yêu cầu bắt buộc hiện nay.

Theo Tiến sĩ Lê Đức Thảo - Trưởng Bộ môn Đột biến và ưu thế lai, Viện Di truyền Nông nghiệp, xử lý hạt giống bằng chế phẩm sinh học là một kỹ thuật mới hoàn toàn trong sản xuất đậu tương tại Việt Nam. Sau khi tiếp nhận các chế phẩm đưa vào các thí nghiệm chính quy, Viện Di truyền Nông nghiệp đồng thời thử nghiệm sản xuất vụ đông trên đất 2 lúa tại Vĩnh Phúc, quy mô 1ha.

Kết quả cho thấy, sử dụng chế phẩm sinh học có hiệu quả tốt, cây đậu tương hình thành nốt sần sớm, nốt sần lớn, nhiều, chất lượng tốt, không phải bón thêm phân urê, nhưng khả năng sinh trưởng phát triển tốt hơn so với đối chứng, ít nhiễm các loại sâu bệnh hại, năng suất giống đậu tương DT2008 đạt khoảng 2,5 - 2,7 tấn/ha, vượt trên 10% so với bón phân urê.

Từ những thành công đạt được trong mô hình thực tế, năm 2017 Viện Di truyền Nông nghiệp dự kiến tiếp tục thử nghiệm chế phẩm sinh học trên diện tích đậu tương lớn hơn, dưới sự giúp đỡ của Viện Công nghệ nông nghiệp Achentia. Đồng thời, Viện cũng thực hiện nghiên cứu phân lập các chủng vi khuẩn cố định đạm tăng nốt sần đậu tương của Việt Nam, tiến tới sản xuất các chế phẩm sinh học.

“Đây là tiến bộ kỹ thuật mới có thể ứng dụng trên diện rộng nhằm góp phần thay đổi tập quán canh tác của nông dân, giảm chi chí sản xuất, tăng hiệu quả kinh tế, bảo vệ môi trường, phục vụ sản xuất đậu tương theo định hướng canh tác bền vững cũng như phù hợp mục tiêu tái cơ cấu ngành nông nghiệp mà Bộ NN-PTNT và Chính phủ đang quyết liệt triển khai”, TS Lê Đức Thảo.

 

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cao điểm phòng trừ sâu cuốn lá nhỏ hại lúa xuân vào dịp nghỉ lễ 30/4

Theo Trung tâm BVTV phía Bắc, thời điểm phòng trừ tập trung sâu cuốn lá nhỏ từ 25/4 - 5/5. Sau khi phun lần 1, nếu mật độ còn cao tổ chức phun trừ lần 2.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm