| Hotline: 0983.970.780

Tư vấn của Viện nghiên cứu Ngô

Thứ Hai 15/03/2010 , 10:09 (GMT+7)

Viện NC Ngô xin giới thiệu đặc điểm một số bộ giống ngô lai của Viện hiện đang được cung ứng rộng rãi trên thị trường và tư vấn thời gian gieo trồng đạt hiệu quả cao, cụ thể:

Theo Trung tâm Dự báo Khí tượng thuỷ văn Trung ương, trong vụ xuân 2010, lượng mưa thấp hơn hoặc xấp xỉ trung bình nhiều năm, khả năng sẽ xảy ra tình trạng thiếu nước và khô hạn trên diện rộng ở vùng Đông Bắc, miền núi phía Bắc và trung du Bắc bộ, ảnh hưởng xấu tới sản xuất. Trước tình hình đó, Viện NC Ngô xin giới thiệu đặc điểm một số bộ giống ngô lai của Viện hiện đang được cung ứng rộng rãi trên thị trường và tư vấn thời gian gieo trồng đạt hiệu quả cao, cụ thể:

1. Nhóm giống ngô dài ngày: LVN10

Thời gian sinh trưởng biến động từ 100-135 ngày, tuỳ thuộc vào từng thời vụ gieo trồng, cụ thể: vụ thu 100-105 ngày; vụ đông 110-125 ngày; vụ xuân 120-135 ngày. Tiềm năng năng suất 8-10 tấn/ha. Tỷ lệ cây cho 2 bắp hữu hiệu có thể đạt tới 40-45%; hiện nay đang được gieo trồng nhiều vụ và nhiều vùng trong cả nước cũng như một số nước trong khu vực. Thời gian gieo trồng cho các tỉnh đồng bằng Bắc bộ trong vụ ĐX từ 15/12-30/12; vụ xuân từ 20/1-15/2; vụ xuân hè ở các tỉnh miền núi phía Bắc từ 15/3-30/4 phụ thuộc vào mưa đến muộn hay đến sớm.

2. Nhóm giống ngô trung ngày: LVN4; LVN99; LVN45; LVN61; VN8960; LCH9

Thời gian sinh trưởng biến động từ 95-125 ngày, cụ thể: Vụ thu 95-100 ngày; vụ đông 105-110 ngày; vụ xuân 115-120 ngày. Tiềm năng năng suất 8-10 tấn/ha. Tỷ lệ cây cho 2 bắp hữu hiệu có thể đạt tới 25-30%; năng suất cao, chất lượng tốt, chống chịu sâu bệnh và đổ gãy khá, màu hạt đẹp, lá bi che kín bắp, chịu hạn, chịu mật độ cao, khả năng kết hạt tốt. Hiện nay đang được gieo trồng nhiều vụ và nhiều vùng trong cả nước; đặc biệt là các tỉnh đồng bằng sông Hồng, các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc như Bắc Giang, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Phú Thọ, Vĩnh Phúc,v.v... Thời gian gieo trồng cho các tỉnh đồng bằng và trung du Bắc bộ trong vụ ĐX từ 15/12-30/12; vụ xuân từ 20/1-15/2; vụ xuân hè ở các tỉnh miền núi phía Bắc từ 25/2-30/4 phụ thuộc vào mưa đến muộn hay đến sớm.

Trong nhóm này các giống ngô đặc biệt chịu được hạn như VN8960; LVN61 và LCH9 (giống chủ lực cho vùng khô hạn nhờ nước trời như các tỉnh miền núi phía Bắc).

3. Nhóm giống ngô ngắn ngày: LVN9; LVN25; LVN885

Thời gian sinh trưởng biến động từ 90 - 95 ngày, cụ thể: Vụ thu 85-90 ngày; vụ đông 90-95 ngày; vụ xuân 95-100 ngày. Tiềm năng năng suất 6-8 tấn/ha. Tỷ lệ cây cho 2 bắp hữu hiệu có thể đạt tới 15-20%. Năng suất cao, chất lượng tốt, chống chịu sâu bệnh và đổ gãy khá, màu hạt đẹp, lá bi che kín bắp, chịu hạn, chịu mật độ cao, khả năng kết hạt tốt. Hiện nay đang được gieo trồng nhiều vụ và nhiều vùng trong cả nước; đặc biệt là các tỉnh đồng bằng sông Hồng, các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc như Bắc Giang, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, v.v... Thời gian gieo trồng cho các tỉnh đồng bằng và trung du Bắc bộ trong vụ ĐX từ 30/12 - 15/1; vụ xuân từ 25/1-25/2; vụ xuân hè ở các tỉnh miền núi phía Bắc từ 25/3-30/4 phụ thuộc vào mưa đến muộn hay đến sớm.

Công ty Tư vấn và Đầu tư phát triển Ngô thuộc Viện NC Ngô sẵn sàng hợp tác với các cơ quan quản lý Nhà nước, cơ quan chuyên môn và bà con nông dân các địa phương, triển khai chương trình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật giống ngô trong điều kiện hạn hán để đạt được vụ ngô thắng lợi. Liên hệ: ThS Vũ Duy Điện, ĐT: 0913567125.

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm