Cố Chủ tịch nước Lê Đức Anh gặp cố Chủ tịch Cuba, Fidel Castro trong chuyến thăm hữu nghị chính thức Cộng hoà Cuba tháng 10/1995 |
Sinh cuối năm 1920, tại làng Trường Hà, huyện Phú Vang, Thừa Thiên - Huế, trong một gia đình bần nông quê gốc xứ Truất, làng Bàn Môn, xã Lộc An, huyện Phú Lộc, cố Chủ tịch nước Lê Đức Anh trải qua những năm tháng đầu đời bên dòng sông Truồi, vốn là nguồn nước chính cho nghề nông trong làng. Trường Hà là một làng nghèo bên phá Tam Giang. Ruộng canh tác rất ít, đất pha cát, khó cấy trồng và trồng cây gì cũng khổ công chăm bón.
Thời cố Chủ tịch nước mới chào đời, dân Trường Hà vừa làm ruộng vừa nhờ trời, mùa màng thất bát liên miên. Đa số gia đình trong làng quanh năm thiếu ăn, khiến người dân phải đi các nơi làm thuê. Trong cuốn hồi ký: "Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng" do cố Chủ tịch nước viết, ông bảo: “Người dân đi làm vất vả chỉ được một hào mỗi ngày, trong khi tiền nộp thuế thân, mỗi suất đinh là một đồng mỗi năm. Thuế điền thổ tự bao đời là gánh nặng với nông dân”.
Thời bấy giờ, nông dân chịu cảnh sưu cao thuế nặng, thành thử khắp vùng Trường Hà đâu đâu cũng thấy cảnh xơ xác, tiêu điều, người dân lam lũ, khổ cực, ốm đau quanh năm. Chính cố Chủ tịch nước, từ một trận dịch đậu mùa, đã bị hỏng một bên mắt trái, đôi chân yếu không đi lại được bình thường. Dù vậy, ông vẫn có chút may mắn hơn những người đồng trang lứa khi thân phụ có nghề bốc thuốc, giúp cuộc sống đỡ cơ cực.
Lên năm tuổi, cậu bé Lê Đức Anh được học chữ Nho tại nhà. Đến tuổi cắp sách tới trường, cậu được học chữ Quốc ngữ ở làng Dưỡng Mong và trường An Lương Đông, huyện Phú Lộc. Tới năm 11, Lê Đức Anh ra thành phố Vinh, Nghệ An ở nhà chị gái, rồi quay lại Phú Vang giúp cha mẹ làm nông.
“Các anh chị tôi dạy cách trồng khoai, trồng sắn. Hàng ngày, tôi và chị xuống phá Tam Giang lấy cây rong về làm phân và phủ lên luống khoai, luống sắn, rồi gánh nước tưới cho khoai, sắn. Khoai, sắn quê tôi trồng trên đất cát nên rất ngon, khoai ngọt, sắn bùi, nhiều bột. Anh chị em tôi sống và lớn lên nhờ khoai, sắn là chính.
Tôi nhớ, sáng ba chỉ ăn khoai hoặc sắn luộc rồi đi làm đồng, trưa về ăn cơm độn khoai hoặc sắn rồi ngồi đọc sách chữ Nho. Má tôi thì cần cù, quanh năm suốt tháng bận đồng áng, nội trợ hầu như không lúc nào ngơi tay, nhưng ít khi kêu ca điều gì. Má thường dạy chúng tôi phải biết kiên trì vượt lên khó khăn và vui vẻ đón nhận khó khăn. Chính sự nhẫn nhịn, chịu thương, chịu khó của má và người dân quê tôi đã ảnh hưởng nhiều đến tính cách của anh chị em tôi”, cố Chủ tịch nước nhớ lại.
Năm 15 tuổi, cậu bé Lê Đức Anh đi gia sư, dạy chữ Quốc ngữ cho một số trẻ em trong làng, chủ yếu là ở Dưỡng Mong. Ngoài ra, cậu còn đọc nhiều tờ báo như Nhành lúa, Lao động, Thời báo, Dân,... hay các cuốn sách “Vấn đề dân cày”, “Đông Dương với vấn đề phòng thủ”, “Giá trị lao động”… cho bà con hàng xóm nghe. Lê Đức Anh còn kể những câu chuyện về Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Ngô Quyền… Tinh thần cách mạng của cố Chủ tịch nước được hun đúc chính trong thời gian này.
Năm Cố Chủ tịch nước 17 tuổi (năm 1937), ông chính thức tham gia hoạt động cách mạng ở địa phương. Một trong những nhiệm vụ đầu tiên mà Lê Đức Anh được giao là vận động lấy chữ ký của nông dân các làng vào danh sách yêu cầu đối với thực dân Pháp khi đại diện Chính phủ Pháp sang điều tra tình hình Đông Dương.
“Tôi vẫn nhớ hai nội dung rất thiết thực đối với nông dân thời ấy, một là giảm thuế điền thổ, hai là bỏ thuế thân. Từ chỗ đấu tranh đòi giảm thuế đã tiến tới đòi giảm sưu, giảm phu phen lao dịch, đòi tự do, hòa bình. Đây là cuộc biểu dương lực lượng hùng hậu, thể hiện khí thế đấu tranh của các tầng lớp nhân dân nhằm thực hiện khẩu hiệu của Mặt trận Dân chủ do Đảng lãnh đạo”, cố Chủ tịch nước viết trong hồi ký.
Từ chỗ là một trí thức vừa được giác ngộ, Lê Đức Anh trở thành Đảng viên hoạt động sôi nổi ở Thừa Thiên - Huế. Cố Chủ tịch nước tích cực tuyên truyền cho dân chúng về tình hình đất nước, đồng thời gây dựng phong trào cách mạng và bàn cách đấu tranh đòi giảm sưu thuế hà khắc của thực dân, phong kiến, đòi tự do, dân chủ ở làng quê.
Tuổi thơ bên dòng sông Truồi của cố Chủ tịch nước Lê Đức Anh có lẽ sẽ còn nhiều kỷ niệm nếu Chính phủ của Đảng Xã hội Pháp tại vị sau cuộc binh biến cuối năm 1938. Phái hữu lên cầm quyền và nhiều cuộc khủng bố, bắt bớ Đảng viên cùng các người yêu nước diễn ra. Hệ thống cơ sở trong hai năm gây dựng bị vỡ buộc cố Chủ tịch nước rút lui vào vùng bí mật nhằm bảo đảm duy trì hoạt động của Đảng sau này.