| Hotline: 0983.970.780

Ứng xử đúng với lúa vụ 3

Thứ Bảy 12/04/2014 , 08:17 (GMT+7)

Diện tích lúa vụ 3 ở các tỉnh đầu nguồn lại tăng mạnh và hiện có nhiều tranh cãi, nhất là những năm lúa mất giá như năm nay, về nên hay không nên trồng?

Trong nhiều năm nay, diện tích lúa vụ 3 ở các tỉnh ven biển ĐBSCL là ổn định, biến thiên trong khoảng 200.000 - 250.000 ha.

Lúa vụ 3 - mỗi người hiểu một cách

Thời vụ lúa ở các địa phương thuộc ĐBSCL chịu chi phối bởi 3 tác nhân: Mặn ven biển, lũ sông Mekong và phèn ở Đồng Tháp Mười, tứ giác Long Xuyên.

Do có nhiều tiểu vùng sinh thái khác nhau nên thời vụ sản xuất lúa cũng khác nhau và tên gọi từng mùa vụ cũng khác nhau không những trong dân chúng, trong giới khoa học mà ngay cả trong cơ quan quản lý nhà nước.

Theo Tổng cục Thống kê, ĐBSCL có 3 vụ là đông xuân, hè thu và vụ mùa. Thế nhưng thuật ngữ trên lại không phổ biến, các Sở NN-PTNT trong khu vực chia mùa vụ nhỏ hơn: vụ đông xuân, vụ xuân hè (còn gọi là hè thu sớm), vụ hè thu và vụ thu đông.

Lại thêm thời tiết ĐBSCL không có 4 mùa xuân, hạ, thu, đông như các tỉnh phía Bắc mà chỉ có mùa khô và mùa mưa nên người ta còn gọi bằng số, với các tỉnh duyên hải thì vụ hè thu là vụ đầu tiên trong năm nên được gọi là vụ 1, sau đó vụ đông xuân là vụ 3 (vụ mà Tổng cục Thống kê gọi là vụ mùa). Các tỉnh còn lại thì gọi vụ đông xuân là vụ 1, hè thu là vụ 2 và thu đông là vụ 3.

Thuật ngữ lúa vụ 3 hiện có 2 cách hiểu.

Các cơ quan quản lý thuộc các Sở NN-PTNT thì lúa vụ 3 bao gồm lúa vụ đông xuân của các tỉnh ven biển và lúa vụ thu đông các tỉnh đầu nguồn sông Mekong.

Thông thường (bao gồm cả các nhà khoa học và quản lý không chuyên sâu) thì gọi lúa vụ 3 chỉ là vụ lúa thu đông phần lớn nằm ở 3 tỉnh đầu nguồn sông Mekong là Đồng Tháp, An Giang và Kiên Giang.

Trong nhiều năm nay, diện tích lúa vụ 3 ở các tỉnh ven biển là ổn định, biến thiên trong khoảng 200.000 - 250.000 ha. Trái lại, diện tích lúa vụ 3 ở các tỉnh đầu nguồn lại tăng mạnh và hiện có nhiều tranh cãi, nhất là những năm lúa mất giá như năm nay – nên hay không nên trồng lúa vụ 3?

Những lợi thế của lúa vụ 3

Theo Cục Trồng trọt, năm 2005, diện tích lúa thu đông (vụ 3) ở ĐBSCL là 472.430 ha, trong đó vùng duyên hải và vùng thượng nguồn tương đương nhau.

Năm 2010, diện tích này tăng lên 511.535 ha và đến năm 2013 lên 818.888 ha với phần tăng chủ yếu ở 3 tỉnh Đồng Tháp, An Giang và Kiên Giang.

Động lực tăng diện tích lúa vụ 3 chủ yếu từ các lợi thế của vụ này so với vụ hè thu như là gieo sạ vào mùa mưa nên không lo bị hạn, thu hoạch vào mùa khô nên chất lượng lúa cao hơn, dễ thu hoạch, giảm chi phí phơi sấy, năng suất cao hơn và thường bán được giá cao hơn bởi ngoài bán lúa thương phẩm thì còn là nguồn cung chủ yếu cho 200.000 T lúa giống SX vụ đông xuân.

Từ năm 2013 về trước, khi lúa gạo còn dễ bán và bán được giá cao thì lợi nhuận trồng lúa vụ 3 là không phải bàn cãi. Khảo sát năm 2011 của Viện lúa ĐBSCL cho thấy năng suất bình quân lên tới 4,2 T/ha (lúa khô 14%), có đến 91% hộ nông dân trồng lúa vụ 3 cho lợi nhuận khá, 8% hòa vốn và chỉ 1% lỗ.

Cây ngô có thị trường nội địa rất lớn nhưng rất khó để trồng rộng rãi với diện tích lớn ở ĐBSCL bởi hệ thống canh tác, cơ sở hạ tầng, tập quán, lao động cho cây lúa nước không thể song hành với cây trồng cạn.
Nên chăng có quy hoạch, dịch chuyển cơ cấu cây trồng và phân bổ đầu tư cấp quốc gia để ĐBSCL vẫn phát huy được lợi thế với cây lúa nước.

Ngay cả việc làm nghèo đất như lo sợ của các nhà khoa học thì vẫn chưa có bằng chứng thuyết phục bởi những địa phương này đã có quy ước là cứ 3 năm xả lũ một lần để nhận phù sa và vệ sinh đồng ruộng.

Mặt khác thí nghiệm dài hạn về NPK của Viện Lúa ĐBSCL từ năm 1986 đến nay (không hề cho nước lũ vào) thì chỉ khi không bón phân lân năng suất mới giảm dần, còn nếu bón đầy đủ NPK năng suất vẫn không thay đổi theo thời gian.

Thiệt hại lớn nhất cho lúa vụ 3 được ghi nhận vào năm 2011, khi lũ nhấn chìm 7.573 ha, nhưng đây cũng là con số nhỏ vì chỉ chiếm 1,2% diện tích.

Ứng xử thế nào?

Vào lúc cung vượt cầu, lúa gạo mất giá như hiện nay việc giảm diện tích lúa nói chung và lúa vụ 3 ở ĐBSCL là cần thiết nhưng giảm bao nhiêu và giảm như thế nào là cần phải tính toán.

Tất nhiên không có ai cực đoan nghĩ đến việc bỏ hẳn 800.000 ha lúa vụ 3 nhưng việc xác định khoảng 500.000 - 600.000 ha như năm 2010 cho nhu cầu thương mại nội địa và giống cho vụ đông xuân kế tiếp là bền vững.

Cách làm dễ nhất là giảm khoảng 200.000 ha ở 3 tỉnh đầu nguồn bởi hầu hết diện tích này nằm trong đê bao, chỉ cần nhà nước ra thông báo năm nay sẽ xả lũ thì không một nông dân nào dám mạo hiểm.

Thế nhưng không làm lúa vụ 3 thì hàng chục vạn lao động làm gì?

Châu Phú (An Giang) là vùng đất ngập sâu trước khi có lúa vụ 3 đã từng có phương án trồng 1 vụ lúa 2 vụ màu nhưng phương án vẫn nằm mãi trên giấy bởi không được thực tế chấp nhận.

Đồng Tháp Mười từng có khoảng 50.000 ha rừng tràm nhưng nay chỉ còn độ 5.000 ha, số diện tích rừng từng là “sấu gầm, cọp thét” đấy đã được chuyển sang trồng lúa 2 vụ.

Diện tích tràm thu hẹp bởi kỹ thuật xây dựng đã chuyển qua ép cọc bê tông thay cho cừ tràm. Nếu có chính sách tốt thì chỉ cần 1 năm, rừng tràm lại hồi sinh và ít nhất giảm được gần 100.000 ha lúa gieo trồng.

Tiền Giang, Vĩnh Long có khoảng 55.000 ha lúa xuân hè, đây là diện tích gây nên bất lợi cho cả ĐBSCL vì nhờ nó mà sâu rầy ẩn mình lưu cữu. Cần có nghiên cứu cụ thể để rút chuyển đổi.

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cao điểm phòng trừ sâu cuốn lá nhỏ hại lúa xuân vào dịp nghỉ lễ 30/4

Theo Trung tâm BVTV phía Bắc, thời điểm phòng trừ tập trung sâu cuốn lá nhỏ từ 25/4 - 5/5. Sau khi phun lần 1, nếu mật độ còn cao tổ chức phun trừ lần 2.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm