| Hotline: 0983.970.780

Ưu thế của thủy sản đơn tính trong nuôi trồng

Thứ Sáu 19/03/2010 , 10:35 (GMT+7)

Việc đưa vào nuôi trồng các loài thủy sản đơn tính sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều lần so với thả nuôi đại trà cả đực và cái.

Việc đưa vào nuôi trồng các loài thủy sản đơn tính sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều lần so với thả nuôi đại trà cả đực và cái.

Một số loài thủy sản nước ngọt khi được đưa vào nuôi thương phẩm thường kém hiệu quả do tỷ lệ đực hoặc cái vượt trội, đa số thường nghiêng về giới tính không có lợi cho người nuôi. Có thể lấy một số loài thủy sản sau làm ví dụ: Cá rô phi thuộc loài Oreochromis, có số lần sinh sản trong năm tới 12-13 lần, vì vậy, nếu trong đàn cá nuôi có số lượng con cái quá nhiều thì sản lượng thu hoạch sẽ thấp do các con cái phải tích lũy chất dinh dưỡng để phát triển buồng trứng nhằm đáp ứng nhiều lần sinh sản trong năm, do đó tốc độ tăng trưởng giảm làm cho sản lượng thấp. 

Tương tự, ở loài tôm càng xanh Macrobranchium rosenborgii do con cái thường phải ôm trứng nhiều lần trong chu kỳ sống, ngay cả khi trọng lượng cơ thể còn nhỏ con cái đã tham gia sinh sản, và phải sử dụng nhiều chất dinh dưỡng nuôi buồng trứng; nhưng do điều kiện môi trường không phù hợp (tôm càng xanh đẻ trứng và trứng phải nở trong môi trường nước mặn) nên trứng dần thoái hóa và thải ra môi trường bên ngoài mang theo nhiều dinh dưỡng. 

Ngược lại ở cá rô đồng thuộc loài Anabas, con cái thường có tốc độ tăng trưởng vượt trội so với con đực vì sinh sản ít lần trong năm, tích lũy nhiều mỡ và khối lượng buồng trứng rất lớn, chứa nhiều dinh dưỡng làm trọng lượng con cái lớn hơn con đực rất nhiều. Như vậy, có thể thấy việc đưa vào nuôi trồng các loài thủy sản đơn tính sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều lần so với thả nuôi đại trà cả đực và cái. Chính vì vậy, các phương pháp khoa học lẫn thủ công đã được ứng dụng trong việc tạo ra đàn giống đơn tính để đưa vào sản xuất ở TP HCM và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Điển hình là:

1/ Tôm càng xanh: Được chuyển giao kỹ thuật từ Israel, Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II đã sản xuất được con tôm cái giả bằng phương pháp vi phẫu: cắt tuyến sinh dục đực của 1 con tôm đực trưởng thành; sau đó cho giao phối với một con tôm đực khác có ngoại hình tốt và tốc độ tăng trọng nhanh để sản xuất ra 1 đàn giống tôm càng xanh toàn đực. Hiện nay, hàng năm Viện NCNTTS II cung cấp khoảng 5.000-7.000 con tôm cái giả cho Trại sản xuất giống thủy sản của huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp để sản xuất tôm càng xanh giống toàn đực.

2/ Cá rô phi đơn tính: Sử dụng sự can thiệp của hormon kích thích phát triển tuyến sinh dục đực của đàn cá bột khi mới sinh ra, bằng cách pha trộn với thức ăn cho cá bột ăn trong quá trình ương lên cá hương. Sau một thời gian nhất định, đàn cá sẽ thoái hóa tuyến sinh dục cái, chỉ phát triển tuyến sinh dục đực và cho ra đàn cá giống toàn đực. 

Đây là quy trình sản xuất giống đại trà cá rô phi đơn tính của Trại sản xuất cá giống của Tổng Công ty Nông nghiệp Sài Gòn ở phường Phú Hữu, quận 9, TPHCM; hàng năm có thể cung ứng trên 20 triệu con giống. Hoặc áp dụng phương pháp lai tạo giữa các loài cá rô phi khác nhau như: cho lai tạo giữa cá rô phi Đài Loan với cá rô phi xanh (nhập khẩu từ Trung Quốc) sẽ cho ra đàn giống có tỷ lệ con đực trên 95%. Đây là thành tựu của quy trình sản xuất giống của Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I và đã chuyển giao cho nhiều đơn vị trong nước như Công ty TNHH TM và Sản xuất Hải Thanh ở ấp 3, xã Hiệp Phước, huyện Nhà Bè, TPHCM.

3/ Cá rô đồng: Hiện nay chưa có phương pháp khoa học nào thành công để sản xuất ra cá rô đồng toàn cái; tuy nhiên trong dân gian đã áp dụng phương pháp thủ công bằng hình thức lọc đàn cá thông qua mắt lưới (còn gọi là chặt đầu con), tuyển lại những con có kích thước lớn hơn để nuôi riêng. Đa số những con lớn đều là những con cái, có tốc độ phát triển nhanh hơn; và quá trình tuyển lựa này phải được thực hiện từ 2-3 lần trong 1 chu kỳ nuôi, tỷ lệ con cái sẽ đạt 65-70%. Phương pháp này cũng được thực hiện trong quá trình sản xuất giống tại Hợp tác xã nuôi trồng thủy sản Tương Lai tại xã Phước Hiệp, huyện Củ Chi, TPHCM. Hiện nông dân huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp rất thành công khi áp dụng phương pháp này.

Hiệu quả kinh tế và những khó khăn:

 Nuôi các loài thủy sản đơn tính luôn đạt hiệu quả kinh tế cao hơn so với các mô hình nuôi không chọn lựa giới tính, thí dụ: - Mô hình nuôi tôm càng xanh: Sau 5 tháng nuôi, mô hình nuôi tôm toàn đực sẽ cho tỷ lệ tôm loại 1 (≤ 20 con/kg) cao hơn  20-40% so với tôm không phân biệt giới tính. - Mô hình nuôi cá rô đồng: Sau 6 tháng nuôi, tỷ lệ cá loại 1 (≤ 10 con/kg) cao hơn 20-25% so với mô hình nuôi cá không chọn lọc. - Mô hình nuôi cá rô phi đơn tính: Hiện nay chỉ có loại cá này được chọn nuôi phổ biến, còn loại cá rô phi thường không còn được ưa chuộng. Tuy nhiên, đối với các loài thủy sản đã áp dụng được sự can thiệp của khoa học lại không thể tiến hành sản xuất được nhiều giống, không đủ cung ứng cho nhu cầu của nông dân.

Ngược lại, loài thủy sản chưa có sự can thiệp của khoa học lại đòi hỏi tốn rất nhiều công sức và số lượng giống cũng chỉ thu hẹp cho từng khu vực. Vì vậy, muốn nâng cao sản xuất trong nuôi trồng thủy sản, cần có những chính sách phát triển khâu sản xuất giống có chất lượng; tăng cường cơ sở vật chất cho các Trung tâm sản xuất và ương giống, cũng như đào tạo đủ lực lượng cán bộ khoa học cho nghiên cứu và sản xuất giống thủy sản đơn tính.

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cao điểm phòng trừ sâu cuốn lá nhỏ hại lúa xuân vào dịp nghỉ lễ 30/4

Theo Trung tâm BVTV phía Bắc, thời điểm phòng trừ tập trung sâu cuốn lá nhỏ từ 25/4 - 5/5. Sau khi phun lần 1, nếu mật độ còn cao tổ chức phun trừ lần 2.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm