| Hotline: 0983.970.780

Ý thức sử dụng, bảo quản công trình nước sạch kém

Thứ Sáu 28/10/2011 , 11:03 (GMT+7)

Hiện trên địa bàn tỉnh Bình Định có 120 công trình nước sạch, ngoài 3 công trình trọng điểm quản lý, khai thác hiệu quả, hàng trăm công trình còn lại đang sống dở chết dở.

Bể nước công cộng ở thôn 1 xã An Toàn (An Lão)

Hiện trên địa bàn tỉnh Bình Định có 120 công trình nước sạch, ngoài 3 công trình trọng điểm do Trung tâm NS - VSMTNT (thuộc Sở NN-PTNT Bình Định) quản lý, khai thác hiệu quả, hàng trăm công trình còn lại đang sống dở chết dở.

Theo ông Hồ Đắc Chương, GĐ Trung tâm NS - VSMTNT thì hiện trong số 120 công trình nước sạch tại Bình Định thì có 3 công trình, gồm: Phước Sơn (Tuy Phước) 3.000 khối/ngày; Nhơn Tân (An Nhơn) 1.000 khối/ngày và Bình Tường (Tây Sơn) 1.200 khối/ngày là đang được vận hành bằng công nghệ khá hiện đại, số còn lại do địa phương quản lý hầu hết vừa nhỏ, vừa ọp ẹp. Các công trình này đang “sống” mà như đã “chết”. Những địa phương có nhiều công trình nước sạch thoi thóp nhất là các huyện miền núi Vĩnh Thạnh, Vân Canh, An Lão.

Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy những công trình nước sạch ở các huyện miền núi hầu hết được xây dựng từ các Chương trình 134, 135. Các công trình này lấy nước từ núi cao dẫn về qua bể lọc xử lý, sau đó cấp về bể công cộng cho dân dùng. “Đã cấp qua bể công cộng thì không thu được tiền. Không thu được tiền thì không có kinh phí trả lương cho người vận hành và tu sửa, nâng cấp khi chúng hư hỏng dẫn đến thảm trạng ngày càng bệ rạc”, ông Hồ Đắc Chương cho biết.

Một nguyên nhân quan trọng dẫn đến các công trình kém hiệu quả là ý thức của người dân về bảo vệ các công trình gần như là con số không. Trong chuyến đi thực tế tại huyện miền núi Vân Canh, chúng tôi từng chứng kiến cảnh 1 người dân đi làm rẫy về, ngang qua bể chứa công cộng, anh ta xả nước để rửa. Rửa xong, anh ta thản nhiên không đóng vòi nước lại, cứ thế bỏ đi.

Tôi hỏi: “Sao anh không đóng vòi nước lại?". Anh ta trả lời: “Nước ở trên núi chảy cả ngày cả đêm thì có sao đâu”. Thậm chí có trường hợp đường ống dẫn nước sạch chạy qua qua ruộng, vào mùa khô hạn, những chủ ruộng biết chắc trong đường ống kia có nước nên họ không ngần ngại dùng rựa đập vỡ đường ống để nước chảy ra tưới lúa cứu hạn.

Các công trình nước sạch ở xã An Toàn (An Lão) trông càng bi đát. Những chiếc bình inox ở thôn 2 dùng để lấy nước từ trên núi về được đặt cao hơn so nguồn nước, máy bơm không đủ công suất bơm nước lên nên cứ nằm chỏng chơ ngoài mưa nắng suốt hàng chục năm qua, không phục vụ được gì cho dân.

Ông Chương cho biết: Trong những năm gần đây, để các địa phương phát huy tính tự chủ trong việc cấp nước sạch về các vùng nông thôn, hằng năm tỉnh phân bổ nguồn vốn của TƯ hỗ trợ về cho các địa phương. Sau đó, các địa phương đầu tư thêm kinh phí và vận động người dân đóng góp thêm để xây dựng công trình. Thế nhưng việc này chẳng mấy địa phương làm được.

Tiền của dân thì không thể vận động, vì chưa mấy người có ý thức nước sạch cần thiết như thế nào trong cuộc sống. Chính quyền các địa phương thì vì lý do nghèo nên cũng không đầu tư thêm kinh phí, có đồng nào của tỉnh đầu tư thì làm đồng nấy. Do vậy, hầu hết các công trình đều được xây dựng chắp vá với thiết bị cũ kỹ, lạc hậu.

"Bên cạnh phải hoàn thiện bộ máy vận hành để bảo đảm chất lượng nước, các địa phương cần tổ chức tập huấn nâng cao ý thức sử dụng nước sạch cho người dân. Khi họ nhận thấy việc sử dụng nước sạch là cần thiết thì công trình sẽ hoạt động hết công suất. Có nguồn thu, các địa phương sẽ có điều kiện để tu sửa, nâng cấp công trình", ông Hồ Đắc Chương, GĐ Trung tâm NS - VSMTNT Bình Định.

Bên cạnh đó, bộ máy vận hành các công trình nói trên cũng mang tính được chăng hay chớ. Những người có trách nhiệm vận hành các công trình nước sạch hầu như không được đào tạo bài bản, cùng lắm chỉ được dự những lớp tập huấn vài ba ngày nên việc vận hành được thực hiện theo kiểu “tiện đâu làm đó”. Thậm chí không hề có ý thức bảo quản nên ở một số công trình chúng tôi được nghe người dùng nước phản ánh: “Chúng tôi trả tiền mua nước sạch nhưng nước dùng thật sự không sạch nên thà chúng tôi quay lại dùng nước giếng sướng hơn”.

Giải thích vấn đề này, ông Chương cho biết thêm: “Sau mỗi mùa mưa lũ, các bể chứa tại những công trình phải được nạo vét thì mới đảm bảo được chất lượng. Công trình nào không thực hiện công đoạn này, bùn lắng trong bể chứa đóng hết lớp này đến lớp khác làm sao có nước sạch được”.

Thực trạng trên đã khiến người dân ngày càng xa rời nước sạch, quay lại dùng nước giếng. Thực tế hiện nay ở những vùng khó khăn về nước sinh hoạt, mỗi năm người dân cũng chỉ dùng nước sạch có 2 tháng vào mùa khô hạn. “Một công trình xây dựng đến bạc tỷ nhưng mỗi năm hoạt động chỉ 2 tháng nguồn thu không đủ để bù chi thì lấy đâu ra tiền mà tu sửa hư hỏng nên các công trình ngày càng xuống cấp trầm trọng là lẽ đương nhiên”, ông Hồ Đắc Chương nói.

Xem thêm
424 hộ nghèo tỉnh Ninh Bình được hỗ trợ xây dựng, sửa chữa nhà ở

Năm 2024, tỉnh Ninh Bình sẽ hỗ trợ hơn 37 tỷ đồng xây dựng, sửa chữa nhà ở cho 424 hộ nghèo, khó khăn trên địa bàn.

Hưng Yên: Nhiều giải pháp đảm bảo vệ sinh môi trường nông thôn

Những giải pháp dưới đây vừa giúp giảm căn bản ô nhiễm môi trường, vừa tạo ra lượng lớn phân hữu cơ chất lượng tốt chăm bón cho cây trồng.

Bến Tre bán sản phẩm OCOP trên Youtube, Tiktok

Hội Nông dân Bến Tre vừa có chương trình ghi nhớ hợp tác để thúc đẩy thương mại số sản phẩm OCOP.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm