| Hotline: 0983.970.780

4 giống đậu tương mới

Thứ Tư 16/02/2011 , 10:27 (GMT+7)

Mới đây, Hội đồng Khoa học Bộ NN-PTNT đã công nhận 4 giống đậu tương mới, trong đó có 2 giống đậu tương ăn hạt và 2 giống đậu tương rau.

Mới đây, Hội đồng Khoa học Bộ NN-PTNT đã công nhận 4 giống đậu tương mới, trong đó có 2 giống đậu tương ăn hạt: DT2001 – chính thức, DT2008 – sản xuất thử và 2 giống đậu tương rau (đậu nành lông): DT02 – chính thức, DT08 – sản xuất thử do Viện Di truyền Nông nghiệp chọn tạo.

1. Giống đậu tương DT2001

Là giống lai giữa DT84 (mẹ) x DT83 (bố), hoa tím, lá hình tim nhọn, màu xanh đậm, lông nâu nhạt. Cây sinh trưởng khỏe, thời gian sinh trưởng phía Bắc 90 – 97 ngày, phía Nam 80 – 85 ngày. Cây phân cành vừa phải, phù hợp trồng thuần, quả chín màu vàng rơm, số quả chắc trên cây 35 – 280 quả. Năng suất thực tế 20 - 39 tạ/ha (cao hơn DT84 từ 10 – 15%). Chống đổ khá, chống các bệnh gỉ sắt, sương mai, đốm nâu vi khuẩn, lở cổ rễ khá. Chịu nhiệt tốt, chịu lạnh khá. Tỷ lệ protein cao: 43,1%, dầu béo trung bình: 18,4% và đường bột 26,9%.

Giống thâm canh, thích ứng rộng, trồng được 3 vụ/năm, được phép sản xuất trên địa bàn cả nước. Tại các tỉnh phía Bắc có thể bố trí trong các cơ cấu cây trồng:

Lúa lai xuân + đậu tương hè thu DT2001 + ngô đông.

Lúa xuân + lúa mùa trung + đậu tương đông DT2001.

Ngô xuân (lạc xuân, rau, hoa xuân) + đậu tương hè thu DT2001 + ngô đông.

Đất bỏ hoá 1 vụ ở miền núi, trung du: DT2001 xuân (từ 1-15/3) + lúa mùa; hoặc: Ngô xuân hè + DT2001 hè thu.

+ Các tỉnh phía Nam: DT2001 có TGST 80 – 85 ngày có thể áp dụng chung lịch thời vụ như các giống đậu tương khác.

2. Giống đậu tương chịu hạn DT2008

Là giống lai giữa DT2001 x HC100 (gốc Mehico) kết hợp đột biến và chọn lọc theo tiêu chuẩn thích ứng và chống chịu. Có hoa tím, lông nâu, vỏ quả vàng, hạt vàng to (khối lượng 1.000 hạt: 200 – 260 g), rốn hạt màu đen, chất lượng tốt: protein: 40%. Thuộc dạng hình cao cây, phân cành khỏe, số quả chắc trên cây từ 35 – 200 quả, tỷ lệ hạt/quả từ 2,0 – 2,2, năng suất 20 – 40 tạ/ha, có khả năng chống chịu tổng hợp với nhiều yếu tố bất lợi của sản xuất: hạn, úng, nhiệt độ, các loại bệnh, đất nghèo dinh dưỡng, cho năng suất cao 1,5 – 2 lần so với các giống cũ như DT84 trong các điều kiện sản xuất khó khăn của vụ xuân, vụ đông, các vùng khô hạn, lạnh.

- DT2008 có thể sử dụng trong các cơ cấu cây trồng ở phía Bắc:

Lúa xuân + lúa mùa trung + đậu tương đông DT2008 (gieo trước 25/9 DL).

Ruộng cao hạn: Đậu tương xuân DT2008 (gieo 25/1 – 10/2) + lúa mùa + ngô đông.

Tại các tỉnh phía Nam: DT2008 có TGST 95 ngày có thể áp dụng chung lịch thời vụ như các giống đậu tương khác tại các thời vụ: hè thu (vụ II – gieo tháng 7 – 8, thu tháng 10 – 11 vào đầu mùa khô), vụ đông xuân trong mùa khô (gieo các tháng 9 – 2, thu tháng 1 – 5).

3. Giống đậu tương rau chịu nhiệt DT02

Là giống nhập nội kết hợp chọn thuần, khác với các giống đậu tương rau nhập nội khác, giống có khả năng chịu nhiệt, chống chịu khá với sâu bệnh, thích ứng rộng, có thể trồng được 3 vụ/năm (xuân, hè, đông) trên nhiều vùng sinh thái. DT02 có lông trắng, kích thước quả 2 hạt lớn, hạt to, hàm lượng dinh dưỡng cao (tỷ lệ protein hạt non: 11,5%, hạt khô: 38,1%), tỷ lệ quả 2+3 hạt lớn (>85%), số quả tiêu chuẩn/500g < 175 đáp ứng tiêu chuẩn đậu tương rau thương phẩm của thị trường thế giới, năng suất quả xanh thương phẩm cao (8 – 10 tấn/ha), năng suất hạt khô ổn định trong cả 3 vụ 18 – 22 tạ/ha. Thời gian thu quả non 80 – 85 ngày và thời gian chín hạt khô 95 ngày.

- Hướng sử dụng: Các sản phẩm từ giống DT02 như quả non, hạt non, hạt khô phục vụ thị trường nội địa và thị trường nước ngoài dễ tính như Trung Quốc. Hạt già sử dụng hầm nấu, bánh kẹo, sữa đậu nành cao cấp. DT02 có thể bố trí vào các cơ cấu cây trồng thâm canh, tăng vụ như:

Trên đất lúa 3 vụ: Lúa lai xuân + đậu tương rau DT02 + ngô lai.

Trên đất lúa 3 vụ: Lúa xuân + lúa mùa trung + đậu tương rau đông DT02.

Trên đất màu 3 vụ: Ngô xuân (lạc xuân, rau, hoa xuân) + đậu tương rau hè thu DT02 + ngô đông (rau, hoa đông).

Trên đất bỏ hoá 1 vụ ở miền núi, trung du: DT02 xuân (từ 1-15/3) + lúa mùa; hoặc: Ngô xuân hè + DT02 hè thu.

Tại các tỉnh phía Nam, DT02 có thể tham gia vào các cơ cấu cây trồng tương tự như các giống đậu tương khác.

4. Giống đậu tương rau chịu nhiệt chất lượng cao DT08

Là giống lai giữa DT02 x KaoShung 75 có nhiều đặc tính ưu việt như chịu nhiệt, dạng cây và lá gọn, góc phân cành nhỏ, khả năng chống đổ được cải thiện, chống chịu sâu bệnh khá, thích ứng rộng, có thể trồng được 3 vụ/năm (xuân, hè, đông) ở mật độ dày. DT08 có lông trắng, kích thước quả 2 hạt lớn, hạt to, hạt non màu xanh đậm, hạt già màu xanh, tỷ lệ quả 2+3 hạt lớn (>75%), số quả tiêu chuẩn/500g < 175 đáp ứng tiêu chuẩn đậu tương rau thương phẩm của thị trường thế giới, thời gian thu hạt non 75 – 80 ngày và thời gian thu hạt khô 90 ngày, năng suất quả xanh thương phẩm cao (8 – 12 tấn/ha), năng suất hạt khô khá (20,0 – 22,0 tạ/ha). Nhược điểm của giống: Chống chịu bệnh đốm nâu ở mức trung bình.

Tại các tỉnh phía Bắc: DT08 có thời gian sinh trưởng ngắn 80 – 90 ngày đạt năng suất cao, có thể bố trí vào các cơ cấu cây trồng.

Trên đất lúa 3 vụ: Lúa lai xuân + đậu tương rau DT08 + ngô lai.

Trên đất lúa 3 vụ: Lúa xuân + lúa mùa trung + đậu tương rau đông DT08.

Trên đất màu 3 vụ: Ngô xuân (lạc xuân, rau, hoa xuân) + đậu tương rau hè thu DT08 + ngô đông (rau, hoa đông).

Trên đất bỏ hoá 1 vụ ở miền núi, trung du: DT08 xuân (từ 1-15/3) + lúa mùa; hoặc: Ngô xuân hè + DT08 hè thu,

Tại các tỉnh phía Nam: Thời vụ, bố trí cơ cấu cây trồng tương tự như các giống đậu tương khác.

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm