| Hotline: 0983.970.780

Chuyển vụ hè thu sang làm thu đông ở Nam bộ: Chuyển theo vùng

Thứ Ba 25/05/2010 , 10:30 (GMT+7)

Để giảm bớt rủi ro cho nông dân, nhiều địa phương ở ĐBSCL đang tính đến chuyện chuyển đổi dần cơ cấu mùa vụ, trong đó có việc thay thế vụ lúa hè thu (HT) bằng vụ thu đông (TĐ).

Tình hình thời tiết, khí hậu biến đổi đã gây ra những bất lợi cho sản xuất nông nghiệp, nhất là đối với sản xuất lúa. Để giảm bớt rủi ro cho nông dân, nhiều địa phương ở ĐBSCL đang tính đến chuyện chuyển đổi dần cơ cấu mùa vụ, trong đó có việc thay thế vụ lúa hè thu (HT) bằng vụ thu đông (TĐ).

Theo tập quán sản xuất, phần lớn nông dân Nam bộ chỉ quen với 2 vụ sản xuất lúa chính trong năm là đông xuân (ĐX) và HT. Tuy nhiên, trong quá trình thâm canh tăng vụ, nông dân đã dần mở rộng diện tích sản xuất ở các vụ như lúa xuân hè (XH), TĐ và thường được gọi với tên là lúa vụ 3. Những năm gần đây, Bộ NN-PTNT đã chỉ đạo các địa phương cơ cấu lại mùa vụ, đưa vụ lúa TĐ vào lịch sản xuất chính trong năm. Từ đó, diện tích lúa TĐ tăng mạnh và góp phần không nhỏ trong việc tăng thu nhập cho người trồng lúa, tạo ra nguồn lúa nguyên liệu có chất lượng cao phục vụ nhu cầu xuất khẩu.

Lúa HT bị ngập chìm trong lũ

Năm 2009, diện tích lúa TĐ ở ĐBSCL là 420.867ha, với tổng sản lượng thu hoạch đạt gần 1,9 triệu tấn. Trong đó, các địa phương có diện tích sản xuất lớn như An Giang (91.269 ha), Trà Vinh (83.118ha), Đồng Tháp, Vĩnh Long, Tiền Giang (đều trên 40.000ha), Cần Thơ, Bạc Liêu (trên 30.000ha)… Dự kiến, vụ TĐ năm 2010, toàn khu vực sẽ xuống giống khoảng 455.000ha, với tổng sản lượng lúa thu được ước đạt trên 2 triệu tấn. Thực tế cho thấy, sản xuất lúa TĐ có nhiều thuận lợi hơn so với lúa HT, nhất là về tình hình thời tiết và thị trường tiêu thụ.

Ông Huỳnh Thế Năng – Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang cho biết, sau khi xây dựng được hệ thống đê bao nội đồng, tỉnh An Giang đã chủ trương thực hiện 3 năm 8 vụ để đất có thời gian phục hồi lại nguồn dinh dưỡng. Trong đó, vụ lúa bị cắt bỏ chính là TĐ. Tuy nhiên, qua thực tế sản xuất cho thấy, vụ HT thường có chi phí cao nhưng năng suất và chất lượng lúa lại thấp hơn. Nguyên nhân chủ yếu là do lịch mùa vụ gieo sạ lúa HT thường có thời tiết bất lợi, trời mưa bão nhiều dẫn đến lúa bị lép (khi trổ gặp mưa, bão kéo dài gây ảnh hưởng đến quá trình vào mẩy), đổ ngã khi chuẩn bị chín và lên mộng do không phơi sấy được. Điều này, không chỉ gây thiệt hại nặng nề về năng suất mà còn làm chất lượng hạt gạo giảm đi rất nhiều, lúa khó tiêu thụ và giá cũng giảm theo. Từ đó, nhiều nông dân đề nghị nên bỏ vụ HT thay vì TĐ như hiện nay.

Việc thay vụ HT bằng TĐ còn có cái lợi là tránh được thiệt hại do tình hình hạn, mặn vào thời gian đầu vụ, nhất là đối với các tỉnh, thành khu vực ven biển, chưa có đê ngăn mặn hoàn chỉnh. Trong khi đó, thời điểm này (nắng nóng) lại là điều kiện tốt để nông dân vệ sinh đồng ruộng, cày ải, phơi đất, nhằm cắt đứt nguồn sâu bệnh cho vụ sau.

Theo ông Đoàn Ngọc Phả - Phó Giám đốc Sở NN-PTNT An Giang thì để chuyển đổi từ vụ HT sang TĐ cần phải có hệ thống đê bao, tưới tiêu hoàn chỉnh vì thời điểm này ở ĐBSCL rơi vào mùa nước nổi. Ngược với vụ HT, vụ TĐ cần phải chủ động để bơm rút nước ra, chống ngập úng cho lúa. Việc bơm rút nước ra mà chậm trễ 1-2 ngày sẽ làm ảnh hưởng rất lớn đến năng suất lúa. Tốt nhất, nên đầu tư hệ thống bơm điện để chủ động bơm tưới và hạ giá thành sản xuất cho nông dân. Về cơ cấu mùa vụ, lý tưởng nhất hiện nay vẫn là 2 lúa 1 màu và nên theo hướng thay cây màu cho vụ lúa HT. Tuy nhiên, chỉ có thể chuyển đổi theo từng vùng, vì không phải chỗ nào cũng làm màu được (cây màu chỉ thích hợp với những vùng đất cao) và quan trọng hơn là thị trường đầu ra của cây màu hiện chưa thật sự ổn định.

Theo tính toán của nông dân, chi phí đầu tư cho sản xuất vụ TĐ giảm không đáng kể so với lúa HT (tính theo ha). Tuy nhiên, do lúa TĐ trổ chín vào cuối mùa mưa, điều kiện thu hoạch giống như vụ ĐX nên năng suất lúa cao hơn, do đó, giá thành sản xuất thấp hơn. Ngoài ra, lúa TĐ có chất lượng gạo tốt hơn, thị trường đầu ra thuận lợi hơn nhiều so với lúa HT nên nông dân sẽ có lãi cao hơn.

TS Lê Văn Bảnh - Viện trưởng Viện lúa ĐBSCL cho rằng, do điều kiện đặc thù nên khu vực ĐBSCL hiện được chia thành 7 vùng sinh thái khác nhau. Điều kiện thời tiết từng mùa vụ có thể thích hợp cho vùng này nhưng lại bất lợi cho vùng kia. Chẳng hạn, đối với tỉnh Kiên Giang thì chỉ thích hợp làm lúa ĐX và HT chính vụ, còn làm lúa TĐ sẽ gặp khó do đầu vụ bị ảnh hưởng lũ nhưng cuối vụ lại bị nắng hạn và xâm nhập mặn. Ngược lại, các tỉnh như Bạc Liêu, Sóc Trăng làm lúa TĐ lại có những thuận lợi vì lũ thường về chậm và thấp. Vậy chỉ nên chuyển đổi từ vụ HT sang TĐ theo từng vùng. Tốt nhất là nên tiến hành điều tra, từ đó để có cơ sở khoa học cơ cấu lại mùa vụ sao cho phù hợp với từng vùng sinh thái và điều kiện biến đổi khí hậu hiện nay.

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cao điểm phòng trừ sâu cuốn lá nhỏ hại lúa xuân vào dịp nghỉ lễ 30/4

Theo Trung tâm BVTV phía Bắc, thời điểm phòng trừ tập trung sâu cuốn lá nhỏ từ 25/4 - 5/5. Sau khi phun lần 1, nếu mật độ còn cao tổ chức phun trừ lần 2.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm