| Hotline: 0983.970.780

Đẩy mạnh xã hội hóa cấp nước sạch nông thôn

Thứ Ba 04/08/2015 , 09:47 (GMT+7)

Thực hiện Chương trình MTQG về Nước sạch và VSMTNT, những năm gần đây tỉnh Ninh Bình đã tích cực đầu tư và xã hội hóa xây dựng nhiều công trình cung cấp nước sạch cho người dân khu vực nông thôn.

Trong những năm qua, trên địa bàn nông thôn tỉnh Ninh Bình đã xây dựng được 105 công trình cấp nước tập trung, 7 công trình đang xây dựng dở dang và hàng nghìn công trình nhỏ lẻ khác phục vụ sinh hoạt cho nhân dân.

Qua đó nâng tỷ lệ số dân được sử dụng nước hợp vệ sinh lên 91%, trong đó 53,5% số dân được sử dụng nước sạch từ các công trình cấp nước tập trung.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được vẫn nổi lên một số tồn tại, hạn chế. Ông Tống Xuân Toán, Giám đốc Trung tâm Nước sạch và VSMTNT tỉnh Ninh Bình, cho biết trong số 105 công trình được Nhà nước đầu tư hiện chỉ có 82 công trình đang hoạt động; 20 công trình dừng hoạt động, trong đó 4 công trình tạm dừng để nối mạng, 16 công trình hư hỏng và 3 công trình đang chuẩn bị khánh thành.

Hiện nay, Ninh Bình đang có 5 mô hình quản lý bao gồm UBND xã, DN, HTX, tư nhân, Trung tâm Nước sạch và VSMTNT. Giá bán nước thì chưa có sự thống nhất giữa các đơn vị, có nơi trên 6 nghìn đồng/m3, có nơi 4 nghìn đồng/m3.

 Mặc dù, UBND tỉnh có văn bản chỉ đạo giá nước sinh hoạt từ 4.700 - 5.900 đồng/m3 đối với hộ sinh hoạt, 8.500 đồng/m3 đối với hộ hoạt động SX và 11.500đồng/m3 đối với hộ kinh doanh dịch vụ.

Bên cạnh đó, trình độ chuyên môn của đội ngũ quản lý và công nhân vận hành tại các trạm cấp nước phần lớn chưa đáp ứng được yêu cầu do chưa qua đào tạo; chế độ lương, phụ cấp cho công nhân còn thấp, chưa ổn định, có trạm không có lương mà chỉ có phụ cấp cho công nhân hằng tháng.

Công tác tuyên truyền về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn còn nhiều hạn chế, do vậy một bộ phận người sử dụng nước chưa ý thức được tầm quan trọng của nước sạch, còn lãng phí nước, lấy nước không qua đồng hồ hoặc không có trách nhiệm bảo vệ công trình cấp nước.

Công tác duy tu, bảo dưỡng định kỳ chưa được quan tâm đúng mức, dẫn đến công trình xuống cấp nhanh chóng; tỷ lệ thất thoát nước cao, có trạm lên đến 30%, cá biệt có nơi lên đến trên 50%; chất lượng nước nhiều nơi chưa ổn định.

"Điều này gây khó khăn không nhỏ trong công tác quản lý, khai thác và sử dụng các công trình nước sạch tại Ninh Bình", ông Toán nhấn mạnh.

Đứng trước thực trạng đó, việc xã hội hóa đầu tư, quản lý, khai thác và sử dụng các công trình cấp nước sinh hoạt nông thôn tập trung ở Ninh Bình là một việc làm cần thiết và cấp bách hiện nay.

Để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các trạm cấp nước tập trung ở khu vực nông thôn, UBND tỉnh Ninh Bình đã phê duyệt phương án tổng thể việc quản lý, khai thác và sử dụng các công trình cấp nước sinh hoạt nông thôn tập trung theo Thông tư số 54/2013/TT-BTC quy định việc quản lý, sử dụng và khai thác công trình cấp nước sạch nông thôn tập trung.

Theo đó, giao 30 công trình cho Cty CP Nước sạch và VSMTNT tỉnh Ninh Bình, 24 công trình cho Trung tâm Nước sạch và VSMTNT tỉnh Ninh Bình quản lý, khai thác và sử dụng, còn 54 công trình giao cho các xã quản lý và thực hiện xã hội hóa.

Với những chính sách ưu đãi của Nhà nước và của tỉnh Ninh Bình cùng với sự nỗ lực và cố gắng của các đơn vị, DN, nhà đầu tư, hy vọng rằng tỉnh Ninh Bình sẽ thực hiện thành công chương trình xã hội hóa cung cấp nước sạch đến người dân các vùng nông thôn, để 100% nhân dân có thể sử dụng nước sạch trong thời gian tới.

Xem thêm
424 hộ nghèo tỉnh Ninh Bình được hỗ trợ xây dựng, sửa chữa nhà ở

Năm 2024, tỉnh Ninh Bình sẽ hỗ trợ hơn 37 tỷ đồng xây dựng, sửa chữa nhà ở cho 424 hộ nghèo, khó khăn trên địa bàn.

Hưng Yên: Nhiều giải pháp đảm bảo vệ sinh môi trường nông thôn

Những giải pháp dưới đây vừa giúp giảm căn bản ô nhiễm môi trường, vừa tạo ra lượng lớn phân hữu cơ chất lượng tốt chăm bón cho cây trồng.

Bến Tre bán sản phẩm OCOP trên Youtube, Tiktok

Hội Nông dân Bến Tre vừa có chương trình ghi nhớ hợp tác để thúc đẩy thương mại số sản phẩm OCOP.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm