| Hotline: 0983.970.780

Thu hồi hàng tỷ đô la "rơi vãi"!

Thứ Ba 10/11/2009 , 14:30 (GMT+7)

Mục tiêu trên không quá xa vời nếu trong vòng 10 năm nữa, VN thực hiện thành công Nghị quyết 48/NQ-CP của Chính phủ về cơ chế, chính sách giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản. Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Hồ Xuân Hùng đã chủ trì Hội nghị triển khai thực hiện Nghị quyết quan trọng này.

Mục tiêu trên không quá xa vời nếu trong vòng 10 năm nữa, VN thực hiện thành công Nghị quyết 48/NQ-CP của Chính phủ về cơ chế, chính sách giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản. Hôm qua 9/11 tại TPHCM, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Hồ Xuân Hùng đã chủ trì Hội nghị triển khai thực hiện Nghị quyết quan trọng này. 

Thực hiện hiệu quả Nghị quyết 48/NQ-CP, hàng tỷ đô la “rơi vãi” sẽ được thu hồi

Tổn thất lên tới 25%!

Theo báo cáo của Bộ NN-PTNT, hiện tổn thất về sản lượng trong và sau thu hoạch đối với lúa là 11 – 13%, ngô 13 – 15% tập trung ở các khâu thu hoạch, phơi sấy, bảo quản và xay xát, chế biến. Ngoài sự tổn thất về sản lượng còn bị sụt giảm đáng kể về chất lượng nông sản như: nhiễm Aflatoxin đối với ngô, Achrotoxin A đối với cà phê làm giá hạt thương phẩm bị giảm từ 10 – 20%, thủy sản đánh bắt và rau quả bị tổn thất tới 20 – 25% cả về sản lượng và chất lượng.

Ví dụ điển hình nhất, theo ông Đoàn Xuân Hòa – Phó Cục trưởng Cục Chế biến Nông lâm thủy sản & nghề muối (NLTS&NM), hầu hết các hộ nông dân sản xuất lúa gạo tại ĐBSCL hiện nay không có máy sấy, chỉ phơi trên sân, trên đường hoặc bán lúa tươi cho thương lái ngay khi thu hoạch. Việc áp dụng công nghệ bảo quản chưa tốt nên tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch còn rất cao từ 11 – 12%, trong đó khâu phơi sấy tồn trữ chiếm 4,5%. Cùng với việc tổn thất về số lượng, chất lượng lúa gạo cũng bị giảm nhiều, ảnh hưởng tới phẩm cấp và giá trị thương phẩm của gạo sau khi xay xát (tỷ lệ tấm, hạt gãy cao, thu hồi giảm…), gây ra tình trạng “được mùa ngoài đồng – mất mùa trong nhà”. Ngoài ra, về năng lực dự trữ, tổng tích lượng kho bảo quản lúa gạo của ĐBSCL hiện nay là 1,2 triệu tấn với chu kỳ bảo quản 3 tháng thì một năm lượng thóc được bảo quản khoảng 3,5 – 4 triệu tấn, mới đáp ứng được 35 – 40% so với yêu cầu dự trữ hàng năm (khoảng 10 triệu tấn). Mặt khác, trước các biến động bất lợi của thị trường, nhất là thị trường XK, các DN kinh doanh chế biến không thể thu mua hết lúa do nông dân sản xuất ra, khiến đời sống người nông dân gặp rất nhiều khó khăn.

Tương tự, ông Ngô Quang Tú – Trưởng phòng chế biến bảo quản thủy sản (Cục Chế biến NLTS&NM) cho biết, mặt hàng chiến lược hải sản đánh bắt mỗi năm khoảng 2 triệu tấn nhưng công tác bảo quản sau đánh bắt còn yếu, hệ thống kho lạnh trữ đông rất thiếu đã ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, làm giảm giá trị hải sản, hiệu quả đánh bắt ngày càng thấp dẫn đến tổn thất lên đến 20%. Trong khi đó về mặt hàng cà phê, theo ông Nguyễn Văn Sinh – PGĐ Sở NN-PTNT Đắk Lắk, việc tạm trữ cà phê để tránh tổn thất về sản lượng và chất lượng đang vô cùng nan giải. “Đắk Lắk có 180.000 ha cà phê những có tới 150.000 hộ dân sở hữu, vì thế công tác áp dụng công nghệ giảm tổn thất sau thu hoạch rất khó khăn, nhất là khi hầu hết người nông dân không thể tiếp cận được nguồn vốn vay ưu đãi” – ông Sinh nói.

Sẽ thu hồi hàng tỷ đô la

Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Hồ Xuân Hùng khẳng định, chúng ta tăng được năng suất 3 – 5% đã thấy khó lắm rồi, trong khi đó lại để lãng phí tổn thất sau thu hoạch lúa gạo, thủy sản, rau quả… lên đến 20 – 25% thì quả quá xót xa! Vì thế, Nghị quyết 48 của Chính phủ nhằm thực hiện Nghị quyết lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp – nông dân – nông thôn bằng mọi cách sẽ giảm tỷ lệ tổn thất xuống mức tối đa. Tổng số tiền để thực hiện cho toàn đề án này trong 10 năm vào khoảng 40.000 tỷ đồng, trong đó vốn nhà nước hỗ trợ trực tiếp từ ngân sách là 5.000 tỷ, vốn tín dụng 21.000 tỷ và khoảng 14.000 tỷ là của DN và người dân.

Đây cũng được xem là Nghị quyết toàn diện, cụ thể đầu tiên dành riêng cho khâu sau thu hoạch. Trước mắt sẽ tập trung giải quyết cho một số sản phẩm chính, có tỷ lệ tổn thất lớn với mục tiêu cụ thể như sau: Đối với lúa gạo giảm mức tổn thất từ 11 – 13% hiện nay xuống còn 5-6%; ngô từ 13 – 15% xuống còn 8 – 9% và hạn chế tối đa mức độ nhiễm độc tố Aflatoxin, cải thiện giá bán thương phẩm khoảng 10%; cà phê hạn chế tối đa mức độ nhiễm độc tố Achrotoxin A, cải thiện giá bán cà phê nhân khoảng 10%; thủy sản, rau quả từ 20 – 25% xuống còn dưới 10% vào năm 2020.

Các giải pháp thực hiện mục tiêu này sẽ tập trung chủ yếu vào các khâu có mức tổn thất lớn (giống, thu hoạch, phơi sấy, bảo quản, xay xát và chế biến); tăng nhanh tỷ lệ cơ giới hóa (làm đất, gieo cấy, chăm sóc, BVTV, thu hoạch, sấy, xay xát, đánh bóng); kết hợp với việc ứng dụng các kỹ thuật bảo quản tiên tiến. Nếu thực hiện tốt các mục tiêu này, hàng tỷ đô la “rơi vãi” trong nhiều năm qua sẽ sớm được thu hồi, làm tiền đề cho việc thực hiện hiệu quả các chính sách về nông nghiệp – nông dân – nông thôn.

Theo thứ trưởng Hồ Xuân Hùng, sau Hội nghị này Bộ NN-PTNT sẽ tiếp thu ý kiến, xử lý các thông tin, văn bản để chính thức từ năm 2010 Nghị quyết 48/NQ-CP sẽ được thực hiện một cách đầy đủ. 

Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Hồ Xuân Hùng

Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Hồ Xuân Hùng: Muốn làm tốt, xin đừng đứng nhìn nhiều quá!

Điểm bất cập nhất trong thực trạng cơ giới hóa nông nghiệp yếu kém của ta hiện nay là gì, thưa ông?

Cơ giới hóa trong nông nghiệp VN hiện nay đang ở thế đi ngược, bởi lẽ người nông dân VN luôn ở thế bị động, phải chạy theo nhà sản xuất thiết bị. Tôi sang Hàn Quốc thấy thực tế có nhiều vùng sản xuất nông nghiệp của họ cũng nhỏ lẻ, phân tán y hệt VN nhưng họ vẫn cơ giới hóa được 100%. Họ khác ta là đã buộc nhà sản xuất máy móc phải chạy theo nông dân, thiết bị phải chạy theo đồng ruộng. Về điều này, các nhà khoa học VN phải nhanh chóng có câu trả lời tại sao họ làm được mà VN lại không? Các nhà quản lý và hoạch định chính sách phải đưa ra giải pháp để các nhà chế tạo máy đi theo hướng sản xuất của nông dân. Rõ ràng chúng ta phải tính toán lại việc cơ giới hóa ở VN hiện nay, song song đó vẫn tổ chức lại sản xuất cho bớt manh mún hơn.

Nghị quyết đã có nhưng thực hiện để đạt hiệu quả không phải dễ dàng. Ông nhận định thế nào về vai trò trực tiếp của địa phương trong quá trình thực hiện các nội dung này?

Cách đây 15 năm khi tôi còn làm chủ tịch tỉnh Nghệ An, khi đi khảo sát thực tế sản xuất của một số trang trại, nông hộ thấy máy bơm, máy cày thiếu nhiều lắm. Hỏi tại sao không mua thì họ nói lấy đâu ra tiền. Lúc đó tôi bỗng nghĩ rằng, nếu mình bỏ 1 đồng thì có thể sẽ thu về cả trăm đồng tính trên lợi ích chung, vì thế tỉnh đã quyết định hỗ trợ cho nông dân vay mua máy móc thiết bị, lãi suất 100% tỉnh chi cho dân. Sau đó trực tiếp tôi sang tận Thái Lan, Trung Quốc để xem máy móc nông nghiệp của họ có khác gì với VN, thậm chí đặt hàng họ để mang về VN thử nghiệm để có thể lựa chọn mua những loại máy có ưu điểm nhất. Với chính sách này, chỉ trong vòng 2 năm Nghệ An đã xuất hiện hàng loạt máy móc phục vụ quá trình cơ giới hóa và được công nhận là tỉnh điển hình về cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp.

Tôi nghĩ mình chỉ làm một việc rất nhỏ thế thôi nhưng không ngờ lại có hiệu quả cao đến thế. Vì vậy tôi cho rằng, người lãnh đạo ở các địa phương mà trực tiếp là các lãnh đạo Sở NN-PTNT phải giúp UBND tỉnh đưa ra những chính sách thực sự có ích và thiết thực ngay cho quá trình sản xuất của nông dân. Chúng ta đừng nhìn nhòm ngó nhau nhiều quá mà không xắn tay áo làm gì. Thực sự đây là một chính sách đầu tư hiệu quả để phát triển sản xuất. Nếu mỗi địa phương đều làm được chuyện đó thì dứt khoát sản xuất nông nghiệp sẽ có bước chuyển mình.

Vai trò của DN và khái niệm “sản xuất tập trung” trong quá trình này nên hiểu thế nào, thưa ông?

DN đóng vai trò rất quan trọng trong phát triển nông nghiệp, nông thôn. Vì thế Chính phủ đang chuẩn bị một chính sách để đưa DN về với nông dân, về với nông thôn. Thực tế thì mọi đầu vào, đầu ra, KHCN, lao động, việc làm đều là ở DN, vì thế về phía các địa phương cần chủ động đưa ra những chính sách cho mình để kéo DN vào cuộc. Nếu không có một chính sách tốt để đưa DN về với nông dân, nông thôn thì chúng ta khó thành công. Chúng ta cũng cần thay đổi về cách nghĩ của khái niệm “sản xuất tập trung”. Muốn khắc phục từng người nông dân sản xuất nông nghiệp phân tán, manh mún thì DN đứng ra gom lại, đó chính là sản xuất tập trung. Thực sự chúng ta đừng hy vọng người nông dân sẽ tự tập trung lại với nhau như cách nghĩ lâu nay…

Gói kích cầu tiếp theo, người nông dân sẽ trực tiếp được thụ hưởng những chính sách ưu đãi gì?

Tôi rất ủng hộ gói kích cầu thứ hai vì kinh nghiệm từ gói kích cầu thứ nhất đã cho thấy, nó giúp cho nông dân giải tỏa được một số vướng mắc lâu nay, chứ không đơn thuần chỉ để kích thích người sản xuất, để chống lạm phát và thiểu phát, mà cái chính là đã làm cho nông dân giảm được rất nhiều công nhật và làm tăng năng suất sản xuất, thúc đẩy phát triển. Trong năm qua, hơn 300.000 máy móc thiết bị nhỏ và vừa được nông dân mua sử dụng đã thể hiện rất rõ ưu điểm này. Tuy nhiên, rất nhiều nơi nông dân kêu không thể vay vốn được, vì thế vấn đề đặt ra sắp tới là làm thế nào để nông dân có thể tiếp cận thật tốt các chính sách, vốn vay ưu đãi thì hiệu quả kích cầu mới đạt hiệu quả cao. 

Xin cảm ơn Thứ trưởng!

Bùi Nguyễn

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cao điểm phòng trừ sâu cuốn lá nhỏ hại lúa xuân vào dịp nghỉ lễ 30/4

Theo Trung tâm BVTV phía Bắc, thời điểm phòng trừ tập trung sâu cuốn lá nhỏ từ 25/4 - 5/5. Sau khi phun lần 1, nếu mật độ còn cao tổ chức phun trừ lần 2.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm