| Hotline: 0983.970.780

Bệnh viêm thanh khí quản truyền nhiễm ở gia cầm

Thứ Tư 21/05/2014 , 07:00 (GMT+7)

Bệnh viêm thanh khí quản truyền nhiễm ở gia cầm là bệnh đường hô hấp với các biểu hiện đặc trưng vật nuôi ngạt từng cơn, khạc đờm lẫn máu, phù nề đầu và có thể kèm theo viêm mí mắt.

Nguyên nhân do virus thuộc nhóm Herpes.

Loài gia cầm mắc bệnh: Gà, gà lôi, gà tây, chim.

Tuổi gia cầm mắc bệnh và mùa phát bệnh: Từ sau 20 ngày tuổi đến dưới 1 năm tuổi, bệnh nặng nhất vào giai đoạn gà được 3 - 5 tháng tuổi. Bệnh xảy ra quanh năm, nặng nhất vào mùa nóng ẩm, điều kiện vệ sinh chăn nuôi kém.

Phương thức truyền lây: Truyền dọc từ mẹ sang con, truyền ngang qua đường hô hấp và đường miệng.

Triệu chứng: Bệnh viêm thanh khí quản truyền nhiễm có 5 thể biểu hiện (cấp tính, dưới cấp tính, mãn tính, thể mắt, thể ẩn bệnh).

Thể cấp tính: Có một số gà bị chết đột tử. Một số khác buồn ngủ, ủ rũ, xù lông, thở khó, ngạt từng cơn, rướn dài cổ hít khí và ngáp hoặc hắt hơi. Cuối cơn ngạt gà lắc đầu khạc đờm đôi khi có lẫn máu. Da, mào tích có màu xanh tím. Các biểu hiện viêm mũi, viêm mí mắt, chảy nước mắt, nước mũi luôn luôn hiện hữu. Tỷ lệ ốm cao, tỷ lệ chết cũng rất cao 50 - 70%.

Thể dưới cấp: Viêm mũi, viêm mắt, viêm xoang má làm cho gà bị phù đầu giống như sổ mũi truyền nhiễm hoặc bệnh cúm gà, chảy nhiều nước mắt, nước mũi. Ho ngạt từng cơn thưa thớt. Gà ăn kém, giảm đẻ, tỷ lệ ốm khoảng 50%, tỷ lệ chết không quá 20%, bệnh kéo dài 2 - 3 tuần thì chuyển sang thể mãn tính.

Thể mắt: Thể này thường xảy ra ở gà từ 20 - 40 ngày tuổi. 1 trong 2 mắt bị viêm, sợ ánh sáng nên gà thường tìm chỗ ít ánh sáng để dứng hoặc nằm, chảy nước mắt, hai mí mắt bị viêm dính lại với nhau dẫn đến viêm toàn mắt, mù mắt. Một trong hai bên đầu hoặc cả hai bên đều sưng to.

Thể mãn tính: Các triệu chứng ho thở ngạt xảy ra với tần số thấp. Tỷ lệ đẻ giảm nhẹ nhưng kéo dài. Tỷ lệ chết khoảng 5%. Bệnh kéo dài hàng tháng, thậm chí đến 2 tháng.

Thể ẩn bệnh: Đây là thể mang trùng.

Mổ khám

Thể cấp và dưới cấp tính:

- Niêm mạc và thanh mạc của khí quản phù nề, dồn máu đỏ hoặc xuất huyết điểm, chứa nhiều dịch lẫn máu, đôi khi cả cục máu.

- Niêm mạc thanh quản cũng phù nề đỏ hoặc được phủ một lớp màng nhầy trắng.

- Viêm đường hô hấp trên (viêm mũi, viêm xoang).

- Viêm mí mắt, phù nề đầu.

- Túi Fabricius sưng to, bổ đôi thấy dồn máu đỏ hồng.

- Niêm mạc hậu môn phù nề đỏ hồng dễ nhầm với Newcastle, nhưng không có viêm xuất huyết ở van hồi manh tràng, ruột non và dạ dày tuyến.

Thể mãn và ẩn bệnh:

- Niêm mạc vùng họng, thanh quản, khí quản được phủ một lớp màng giả Fibrin mỏng khó bóc màu trắng ngà giống như bệnh nấm đường tiêu hóa hoặc bệnh thiếu vitamin A.

- Các bệnh tích khác không rõ.

Điều trị:

- Phải thực hiện 2 việc cùng một lúc:

+ Uống hoặc nhỏ trực tiếp ngay lập tức vacxin ILT – Laringo vào đàn gà bệnh. Sau đó 10 ngày cho uống nhắc lại lần 2.

+ Cho uống thuốc theo 1 trong 2 phác đồ sau:

Phác đồ 1: 1gr CCRD. Năm Thái kết hợp với 1g Gentafam-1 hoặc 1gr Hepaton và 1gr Super-Vitamin pha vào 1 lít nước cho gà uống cả ngày, uống liên tục đủ 4 - 5 ngày là khỏi.

Phác đồ 2: Lấy 1gr CCRD. Năm Thái kết hợp với 1gr Anti-CRD.LA hoặc Tydox TA và 1g Doxyvit pha chung vào 1 lít nước cho gà uống cả ngày, uống đủ 4 - 5 ngày là khỏi.

Phòng bệnh:

- Giữ gìn vệ sinh chăn nuôi thú y thật tốt.

- Chủ động dùng vacxin.

Lần 1: Nhỏ mũi, mắt, mồm vacxin ILT- Laringo lúc gà đạt 15 - 25 ngày tuổi.

Lần 2: Uống vacxin ILT- Laringo lúc gà 45 - 50 ngày tuổi.

Lần 3: Cho uống lại vacxin ILT- Laringo trước khi gà đẻ 15 - 30 ngày. (Còn nữa)

Xem thêm
Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cao điểm phòng trừ sâu cuốn lá nhỏ hại lúa xuân vào dịp nghỉ lễ 30/4

Theo Trung tâm BVTV phía Bắc, thời điểm phòng trừ tập trung sâu cuốn lá nhỏ từ 25/4 - 5/5. Sau khi phun lần 1, nếu mật độ còn cao tổ chức phun trừ lần 2.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm