| Hotline: 0983.970.780

Cách ngâm ủ thóc giống và gieo cấy lúa để đạt hiệu quả

Thứ Ba 27/06/2017 , 08:40 (GMT+7)

Không nên ngâm quá dài khiến hạt thóc thôi chua nhiều dễ bị thối hỏng hoặc kém phát triển sau gieo...

Hỏi: Xin chuyên gia cho biết cách ngâm ủ thóc giống và gieo cấy lúa để đạt hiệu quả?

Trả lời:

- Ngâm ủ thóc giống: Nếu là giống liền vụ thì thời gian ngâm đòi hỏi phải dài hơn giống cách vụ. Thông thường các giống liền vụ (sản xuất từ vụ xuân 2017) cần phải ngâm từ 32 - 36h(tùy theo đặc điểm vỏ trấu dày hay mỏng và thời tiết nóng hay mát). Giống cách vụ chỉ cần ngâm 24 - 28h.

* Chú ý:

+ Không nên ngâm quá dài khiến hạt thóc thôi chua nhiều dễ bị thối hỏng hoặc kém phát triển sau gieo.

+ Cần rửa chua kịp thời (2 lần/ngày) tránh để nước ngâm thóc quá chua làm hỏng lô giống.

+ Để rễ và mầm cân đối, cây mạ khỏe cần ngâm thóc vào dung dịch một số chế phẩm phân bón nano hoặc sinh học như Lộc xuân, Neb26, Bio, Vườn sinh thái...

- Gieo mạ nền cứng: Chọn được nền đất cứng để gieo mạ mùa sẽ tốt hơn gieo trên sân gạch hoặc xi măng vì cây không bị sốc nhiệt. Nếu không có nền đất cứng thì nên đổ 1 lớp đất bột dày khoảng 1 - 2cm san phẳng và nén chặt như nền sân rồi mới rải giấy xi măng hoặc lá chuối lên trên, sau đó đổ giá thể gồm bùn ao + phân chuồng mục và 1 ít chế phẩm nấm có ích để gieo mạ.

- Ruộng lúa gieo thẳng: Bám sát và theo dõi chặt chẽ dự báo thời tiết để tiến hành gieo vào những ngày thời tiết thuận lợi. Trong trường hợp lô giống đã được gieo mà gặp thời tiết không ưu tiên (mưa lớn kéo dài) cần chuyển sang phương thức vỗ mạ nền.

Ruộng làm đất để gieo thẳng được cày bừa kỹ và được san phẳng cho đều, tránh để trên ruộng có nhiều chỗ trũng sẽ làm mống mạ dễ bị thối hỏng. Đưa nước vào ruộng tráng mống khi cây mạ đã mọc mũi chông, không để ruộng lộ quá lâu sẽ gây nứt nẻ, cây mạ kém phát triển.

- Ruộng cấy mạ dược: Mạ đem cấy yêu cầu đủ tuổi, không nên cấy mạ già ống, quá lứa sẽ làm giảm trầm trọng năng suất. Đối với các giống lúa cao sản cần áp dụng phương thức cấy “hàng rộng - hàng hẹp” nhằm tận dụng ánh sáng triệt để giúp lúa đạt được năng suất cao. Lúa lai nên cấy thưa, cấy ít dảnh (1- 2 dảnh/khóm mật độ 30 - 35 khóm/m2). Lúa thuần cấy vừa phải (2 - 3 dảnh/khóm, mật độ để 35 - 40 khóm/m2), cấy theo hướng đông - tây và nông tay.


Hỏi: Rau cải (nhất là cải củ) ở chỗ chúng tôi thường bị con bọ nhẩy gây hại rất nhiều. Xin được hướng dẫn cách phòng trừ loại bọ này?

Trả lời: Bọ nhẩy là một loài sâu hại thường xuyên gây hại cho nhóm rau thuộc họ Thập tự (nhất là cải củ, cải bẹ xanh…), đặc biệt là khi cây cải còn nhỏ lại gặp thời tiết khô hạn, nắng nóng.

Bọ trưởng thành cắn phá lá cải non tạo ra những lỗ thủng nhỏ kích thước vài mm, nếu nặng lá cải sẽ dày đặc vết cắn làm cây rau xơ xác, còi cọc.

Con ấu trùng cắn phá rễ và củ (cải củ), làm cho cây cải còi cọc, chậm lớn, rễ (củ) dễ bị hư thối.

Để hạn chế tác hại của bọ nhẩy, có thể áp dụng kết hợp một số biện pháp chính sau đây:

-Trước khi làm đất, thu gom sạch tàn dư của cây rau cải ở vụ trước đem ra khỏi ruộng tiêu hủy.

-Không gieo trồng lai rai, để hạn chế nguồn thức ăn phù hợp cho bọ có mặt liên tục trên đồng ruộng.

-Khi thu hoạch nên chừa lại một diện tích nhỏ ở giữa ruộng thu hút bọ tập trung rồi phun thuốc hủy diệt, hạn chế mật độ bọ ở vụ cải kế tiếp.

-Sau vài vụ trồng rau cải nên luân canh với những loại rau màu khác như ngò gai, hành, dưa leo, bầu, bí mướp…

-Cần kiểm tra ruộng cải thường xuyên, nhất là khi cây cải còn nhỏ hoặc vào những thời điểm các ruộng cải xung quanh đang thu hoạch để phát hiện sớm bọ và phun thuốc diệt trừ bọ kịp thời.

Có thể sử dụng một trong những loại thuốc như: Vineem 1500EC, Sarkory 0.3EC/1EC, Biomax 1EC, Ramec 10EC, Andomec 1.8EC, Abagold 38EC. Theo kinh nghiệm của nhà vườn ở huyện Hoài Đức (Hà Nội) thì thuốc Goltoc 250EC hỗn hợp với thuốc Goldra 250WG đã cho hiệu quả rất cao.

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm