Báo Nông Nghiệp

Thứ Tư, 26/3/2025 21:41 (GMT +7)

| Hotline: 0983.970.780

Cảnh báo sớm chỉ thành công khi có hành động sớm

Chủ Nhật 23/03/2025 , 10:57 (GMT+7)

Hệ thống cảnh báo sớm về thiên tai đóng vai trò then chốt trong chiến lược giảm nhẹ rủi ro thiên tai của mọi quốc gia.

Chung tay vì hệ thống cảnh báo sớm toàn diện

Theo Liên Hợp Quốc, hệ thống cảnh báo sớm (Early Warning Systems - EWS) là một yếu tố cốt lõi trong Khung hành động Sendai về giảm nhẹ rủi ro thiên tai (2015-2030). Năm 2022, Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc António Guterres đã khởi xướng Sáng kiến Cảnh báo sớm cho mọi người (Early Warnings for All - EW4All), với mục tiêu đến năm 2027, tất cả người dân trên thế giới đều được tiếp cận hệ thống cảnh báo sớm về thiên tai.

Số liệu từ Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO) cho thấy, lộ trình cảnh báo sớm toàn cầu đã qua một nửa quãng thời gian. Tính đến hết năm 2024, 108 quốc gia thông báo đã có hệ thống cảnh báo sớm đa thiên tai - tăng gấp đôi so với 52 quốc gia vào năm 2015. Các quốc gia kém phát triển nhất có bước tiến vượt bậc, đặc biệt là những nước không giáp biển và các quốc đảo nhỏ đang phát triển, với tốc độ cải thiện cao hơn mức trung bình toàn cầu.

Quan trắc viên Trạm khí tượng Phủ Lý (tỉnh Hà Nam) kiểm tra thông số thiết bị đo giờ nắng. Ảnh: Hoài Linh.

Quan trắc viên Trạm khí tượng Phủ Lý (tỉnh Hà Nam) kiểm tra thông số thiết bị đo giờ nắng. Ảnh: Hoài Linh.

Trong Ngày Khí tượng Thế giới 23/3/2025, Tổ chức Khí tượng thế giới kêu gọi sự hợp tác giữa các bên liên quan trong khu vực công và tư nhân nhằm tạo ra những hệ thống cảnh báo sớm toàn diện và vững chắc hơn.

Ở nửa cuối lộ trình đến năm 2027, Chính phủ các quốc gia có vai trò dẫn dắt chiến lược phát triển, các cơ quan khí tượng thủy văn quốc gia là nguồn cung cấp dữ liệu, cảnh báo chính thức cho cộng đồng. Khối doanh nghiệp có thể đóng góp tài chính, thúc đẩy đổi mới sáng tạo bằng việc ứng dụng từ các công cụ dự báo sử dụng trí tuệ nhân tạo đến công cụ truyền thông hiện đại. Dù là tập đoàn lớn hay công ty địa phương, cộng đồng đều có lợi ích trong việc tận dụng thông tin thời tiết và khí hậu để quản lý rủi ro, bảo vệ tài sản, tối ưu hóa sản xuất và nâng cao khả năng chống chịu bền vững trước thiên tai.

Hoàn thiện hệ thống cảnh báo sớm của Việt Nam

Chia sẻ về các thành phần không thể thiếu trong hệ thống cảnh báo sớm, ông Mai Văn Khiêm, Giám đốc Trung tâm Dự báo KTTV quốc gia (Cục Khí tượng Thủy văn, Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết: Theo quy định và hướng dẫn của WMO, về cơ bản, một hệ thống cảnh báo sớm sẽ có 4 thành phần chính: Mạng lưới quan trắc, giám sát, theo dõi KTTV; hệ thống truyền tải thông tin; phân tích và dự báo; hành động sớm.

Trong đó, mạng lưới quan trắc, giám sát, theo dõi bao gồm rất nhiều loại hình, từ quan trắc bề mặt, quan trắc trên cao, quan trắc bằng các chủng loại vệ tinh, radar, trạm đo trên các tàu hoạt động ở vùng biển ngoài khơi và trên lưu vực sông... Ở đâu cần thông tin khí tượng thủy văn, cần đánh giá những tác động của thiên tai, thời tiết KTTV đến các hoạt động về xã hội thì ở đó chúng ta phải thiết lập mạng lưới quan trắc, giám sát khí tượng thủy văn.

484136398_952253040411053_1845201340463248996_n-102040_612

Trạm quan trắc khí tượng thủy văn vùng núi phía Bắc. Ảnh: Hoài Linh.

Có thể nói đây là thành phần vô cùng quan trọng của hệ thống cảnh báo sớm, cung cấp thông tin đầu vào để hệ thống hoạt động. Nếu trước đây, mật độ các trạm quan trắc lên tới 100-200 km/trạm thì nay đã tăng lên 30-40km/trạm. Tại những nước tiên tiến như Nhật Bản, Mỹ có khi chỉ khoảng 10-15km, riêng trạm đo mưa có thể phân bố với mật độ 3-5km. Điều này còn tùy thuộc vào đặc điểm địa lý, địa hình. Mức độ chia cắt địa hình càng mạnh, càng phức tạp và tác động đến tính chất thời tiết thì càng phải đặt nhiều trạm hơn. Khoảng 10 năm trở lại đây, nhiều nước đã phóng vệ tinh khí hậu quan trắc bề mặt Trái đất. Qua đó, họ theo dõi liên tục đến từng phút các yếu tố KTTV, đặc biệt là trên biển, trên núi – những nơi vốn khó đặt trạm quan trắc. Công nghệ đo ngày càng hiện đại và cho kết quả quan trắc ngày càng chính xác hơn.

Cần lưu ý, các trạm quan trắc trong hệ thống mạng lưới trạm phải được triển khai thực hiện quan trắc đồng bộ, thống nhất. Là thành viên của Tổ chức Khí tượng thế giới, đồng loạt tất cả các cơ quan KTTV tại các quốc gia phải thực hiện quy định về quan trắc bắt buộc vào thời điểm nhất định. Sau vài phút, toàn bộ dữ liệu được truyền tải về hệ thống chung của Tổ chức thế giới để xử lý, sau đó được đồng bộ và chia sẻ ngược lại với tất cả các quốc gia thành viên để có thể khai thác, phục vụ bài toán cảnh báo. Cơ chế này giúp các cơ quan dự báo khí tượng thủy văn có dữ liệu một cách toàn diện để đưa ra nhận định dự báo, cảnh báo.

Trong cảnh báo sớm, hệ thống thông tin truyền tin yêu cầu độ trễ phải ngắn nhất. Tại Trung tâm Dự báo KTTV quốc gia, chỉ trong vòng vài phút, thông tin từ trạm quan trắc cách đó hàng nghìn km, thậm chí là hàng chục nghìn km từ đài quốc tế sẽ chuyển đến các chuyên gia dự báo, cơ quan dự báo để thực hiện bước phân tích cần thiết. Không chỉ điều kiện thời tiết bình thường mà trong mọi tình huống thiên tai xảy ra đều phải duy trì hệ thống truyền tin ổn định. Bởi nếu chậm trễ, thông tin sẽ mất tác dụng cảnh báo.

Khi có thông tin dữ liệu quan trắc truyền về, các chuyên gia dự báo sẽ dựa trên công cụ, mô hình, tính toán khác nhau để phân tích và đưa ra nhận định dự báo. Trong số 22 loại hình thiên tai tại Việt Nam hiện nay, có tới 19 loại liên quan đến KTTV. Tùy tính chất, phạm vi xảy ra của mỗi loại hình thiên tai sẽ có những cảnh báo ngắn hạn, dài hạn. Ví dụ hạn mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long, cơ quan KTTV có thể đưa ra cảnh báo từ trước mùa khô khoảng 3-6 tháng, xâm nhập mặn nguồn nước sẽ được cảnh báo trước 7 ngày – 1 tháng. Đối với bão có thể dự báo trước 3 ngày và cảnh báo trước 5 ngày. Mưa lớn cảnh báo trước 3 ngày, dự báo trước 24 – 48 giờ.

Mọi diễn biến về tình hình mưa lũ, sạt lở đất trên tất cả các khu vực, lãnh thổ Việt Nam đều được theo dõi, giám sát liên tục thông qua các bản đồ phân tích và dự báo định lượng mưa từ 1 đến 6 giờ. Cùng với đó, công tác dự báo, cảnh báo sớm cũng đã được thực hiện tốt. Đối với bão, áp thấp nhiệt đới đã nâng dự báo lên 3 ngày, cảnh báo 5 ngày; dự báo, cảnh báo mưa lớn trước 2-3 ngày, cảnh báo dông sét trước từ 30 phút đến 2-3 giờ. Các đợt rét đậm, rét hại được cảnh báo trước 5-7 ngày, dự báo trước 2-3 ngày. Dự báo thời tiết biển đã có những đổi mới vượt bậc do tiếp thu các công nghệ mới của nước ngoài. Độ phân giải cho mô hình dự báo sóng đã được chi tiết đến 4 km và dự báo sóng với hạn dự báo đến 10 ngày.

Không chỉ tăng hạn dự báo mà thời điểm phát tin cũng sớm hơn. Thời điểm ban hành các bản tin bão hiện nay cũng sớm hơn trước đây từ 30 phút đến 1 giờ. Các bản tin thiên tai khác như nắng nóng, không khí lạnh, mưa lớn đều được ban hành sớm hơn 30 phút so với trước đây.

Thông tin cảnh báo sớm giúp các lực lượng phòng chống thiên tai có thời gian chuẩn bị sẵn sàng trước mọi tình huống thiên tai. Ảnh: Trung Nguyên.

Thông tin cảnh báo sớm giúp các lực lượng phòng chống thiên tai có thời gian chuẩn bị sẵn sàng trước mọi tình huống thiên tai. Ảnh: Trung Nguyên.

Cuối cùng và mang tính chất quyết định đến thành công của hệ thống cảnh báo sớm, đó là hành động sớm. Bản tin cảnh báo thiên tai khi đến được với chính quyền và người dân vùng bị ảnh hưởng kịp thời, giúp họ hiểu rõ và chủ động ứng phó. Do đó, thông tin KTTV, đặc biệt là dự báo, cảnh báo, cần được chuyển tải đa kênh đến các cấp chính quyền, cơ quan phòng chống thiên tai và cộng đồng. Hiện nay, từ trung ương đến địa phương đều đã xây dựng kế hoạch PCTT. Với mỗi loại hình thiên tai và mức độ rủi ro theo dự báo sẽ thực hiện phương án di dời, ứng cứu như thế nào, huy động nguồn lực các cơ quan, đơn vị ra sao... Trong những năm qua, ngành KTTV đã cải tiến công tác thông tin, truyền thông, ví dụ như cung cấp bản tin chi tiết đến từng địa phương bị ảnh hưởng, ứng dụng AI và dữ liệu lớn để nâng cao độ chính xác và tốc độ truyền tải. Hệ thống cảnh báo sớm đã góp phần giảm thiểu thiệt hại trong các đợt thiên tai lớn như bão lũ miền Trung năm 2020, bão YAGI và lũ lớn tại Bắc Bộ năm 2024.

“Năm 2025 kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống ngành KTTV Việt Nam. Ngay từ thời điểm ban đầu, nước ta đã hình thành khung hệ thống cảnh báo sớm với thành phần chính như vừa nêu và tiếp tục phát triển qua nhiều giai đoạn. Đến nay, có thể nói, Việt Nam đã có hệ thống cảnh báo sớm tương đối tốt so với các nước trong khu vực”, ông Khiêm cho biết.

Do tính chất của ngành KTTV, bài toán sự báo là bài toán xác suất thống kê. Cơ quan KTTV chỉ có thể nhận định các sự kiện thời tiết, thiên tai xảy ra với xác suất cao, trung bình hay thấp chứ không thể khẳng định có chắc chắn 100% có xảy ra hay không. Điều này đã được Tổ chức Khí tượng thế giới quy định rõ và cơ quan KTTV chỉ có thể nỗ lực đưa ra thông tin tốt nhất và cập nhật liên tục bản tin để cung cấp tới cộng đồng.

Định hướng các giải pháp hiệu quả

Trong thực tế, công tác dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn nói chung và dự báo, cảnh báo sớm đặc biệt là đối với các loại hình thiên tai nguy hiểm như bão, áp thấp nhiệt đới, lũ quét, sạt lở đất… còn đối diện với nhiều khó khăn. Theo đó, bão, áp thấp nhiệt đới là loại hình thiên tai khó lường, có diễn biến phức tạp, thay đổi nhanh và phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhất là diễn biến cường độ bão, áp thấp nhiệt đới.

Về cảnh báo lũ quét, sạt lở đất, dù đã cải thiện mức độ chi tiết cảnh báo đến từng xã nhưng để tiến thêm một bước đến từng khu vực nhà dân, thôn bản còn là thách thức lớn, không chỉ của riêng Việt Nam mà ngay cả với những nước có trình độ khoa học công nghệ phát triển như Nhật Bản, Mỹ...

Việt Nam đã tiếp nhận Hệ thống hỗ trợ cảnh báo lũ quét Đông Nam Á (SEAFFGS). Đây là hệ thống hỗ trợ cảnh báo lũ quét đầu tiên sử dụng dữ liệu dự báo cực ngắn và được tích hợp một lượng lớn nhiều nguồn dữ liệu khác nhau. Các dữ liệu của Việt Nam đã được tích hợp vào hệ thống gồm số liệu ước lượng mưa từ 10 rada và hơn 1500 trạm mưa tự động, sản phẩm Nowcasting dự báo mưa, sản phẩm dự báo mưa số trị từ mô hình WRF... Tuy nhiên, Hệ thống hỗ trợ cảnh báo lũ quét Đông Nam Á chưa thể hỗ trợ dự báo được vị trí cụ thể xảy ra lũ quét, sạt lở đất, chỉ có thể hỗ trợ các dự báo viên phân tích, cảnh báo các ngưỡng mưa sinh lũ quét đối với mỗi tiểu lưu vực trong 1 giờ, 3 giờ, 6 giờ và được cập nhật thường xuyên theo các khoảng thời gian tương ứng; vùng nguy cơ sạt lở đất trong 24 giờ tiếp theo với tần suất cập nhật 6 giờ/lần.

Đại diện Trung tâm Dự báo Khí tượng thủy văn quốc gia bàn giao bản đồ phân vùng nguyu cơ rủi ro sạt lở, lũ quét chi tiết cấp xã cho đại diện xã Tam Chung, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa. Ảnh: Trung Nguyên.

Đại diện Trung tâm Dự báo Khí tượng thủy văn quốc gia bàn giao bản đồ phân vùng nguyu cơ rủi ro sạt lở, lũ quét chi tiết cấp xã cho đại diện xã Tam Chung, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa. Ảnh: Trung Nguyên.

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu tiếp tục diễn biến phức tạp, thiên tai trong thời gian tới được dự báo khó lường, cực đoan…Do vậy, việc xây dựng, hoàn thiện các hệ thống dự báo, cảnh báo sớm đóng vai trò hết sức quan trọng, đảm bảo cho hệ thống cảnh báo sớm hoạt động hiệu quả từ trung ương đến địa phương.

Theo ông Hoàng Đức Cường, Phó Cục trưởng Cục Khí tượng Thủy văn, thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, ngành đã triển khai nhiều giải pháp nâng cao năng lực dự báo và cảnh báo sớm thiên tai như: Tăng cường số lượng và chất lượng các trạm quan trắc khí tượng, thủy văn, hải văn, đặc biệt ở các khu vực trọng điểm, trên biển và các khu vực có nguy cơ cao xảy ra thiên tai theo hướng hiện đại hóa, tự động hóa; tăng cường các giải pháp quan trắc hiện đại như ra đa thời tiết, ra đa biển, ứng dụng ảnh mây vệ tinh,…

Ngành phát triển các công nghệ dự báo, cảnh báo hiện đại tiệm cận với các nước phát triển về khí tượng thủy văn như mô hình số phân giải cao dự báo bão, dự báo mưa, lũ, cảnh báo lũ quét, sạt lở đất. Tích hợp các tác động của biến đổi khí hậu đến diễn biến thiên tai vào các phương án dự báo khí tượng thủy văn, đồng thời tiếp tục nghiên cứu, ứng dụng trí tuệ nhân tạo (Al) trong công tác dự báo, cảnh báo thiên tai, trước mắt là đối với dự báo bão, mưa và các hiện tượng thời tiết nguy hiểm ít xảy ra theo quy luật thông thường. Bên cạnh đó là đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong trao đổi thông tin, dữ liệu, đặc biệt đối với vấn đề bão trên biển; tiếp nhân, phát triển các công nghệ, quy trình dự báo tiên tiến, hiện đại của các nước thông qua hợp tác song phương, đa phương.

Ngành sẽ tiếp tục phối hợp với các địa phương và các đơn vị trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường đẩy nhanh tiến độ triển khai Đề án “Cảnh báo sớm trượt, sạt lở đất đá, lũ bùn đá, lũ ống, lũ quét khu vực miền núi trung du Việt Nam” và Chương trình cập nhật phân vùng rủi ro thiên tai, lập bản đồ cảnh báo thiên tai, đặc biệt là các thiên tai liên quan đến bão, nước dâng do bão, lũ, lũ quét, sạt lở đất, hạn hán, xâm nhập mặn.

Về lâu dài, ngành thực hiện việc hoàn thiện Kế hoạch triển khai Quy hoạch mạng lưới trạm khí tượng thủy văn Quốc gia  quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành và triển khai thực hiện. Cùng với đó là Đề án “Hiện đại hóa Ngành Khí tượng thủy văn đến năm 2025 và thời kỳ 2026-2030”... Phấn đấu đan dày mạng lưới trạm đến năm 2030, mật độ bình quân trên toàn mạng lưới đạt mức ngang bằng với các nước phát triển khu vực châu Á; tỷ lệ tự động hóa đạt trên 95%. 

Thực hiện tốt và hiệu quả các giải pháp trên sẽ góp phần rút ngắn khoảng cách trong dự báo, dự báo, cảnh báo sớm thiên tai giúp các nhà hoạch định chính sách tập trung vào việc giảm thiểu rủi ro, bảo vệ cộng đồng. Điều này cũng giúp cộng đồng dễ tiếp cận, chủ động hành động sớm để bảo vệ thành quả lao động sản xuất của nhân dân, hướng tới xây dựng một xã hội an toàn, bền vững trước thiên tai.

Xem thêm
4 'nhất' khi đặt mua các dòng xe VinFast Green trong 8 ngày vàng

Ngoài chi phí ban đầu, một trong những yếu tố khiến VinFast Green được săn đón ngay trong những ngày đầu mở cọc là khả năng 'kiếm ra tiền' vô cùng hiệu quả...

Thúc đẩy xanh hóa ngành cao su - nhựa

TP.HCM Việc thực hiện tốt EPR sẽ giúp ngành cao su - nhựa giảm thiểu tác động môi trường, đồng thời mở ra nhiều cơ hội cho lĩnh vực tái chế phát triển mạnh mẽ hơn.

Diễn Châu (Nghệ An): 'Gánh nặng' xử lý rác thải vùng ven biển

Một số xã vùng ven biển ở huyện Diễn Châu (Nghệ An) đang xảy ra tình trạng đổ rác thải bừa bãi, gây ô nhiễm môi trường và khó khăn trong công tác quản lý.

Xâm nhập mặn 'đe dọa' xóa sổ vùng lúa - rươi của Hải Phòng

HẢI PHÒNG Hàng nghìn hecta đầm ngoài đê được người dân canh tác theo mô hình kết hợp lúa - rươi tại Hải Phòng đang bị đe dọa bởi xâm nhập mặn ngày càng tăng.

Chất lượng nước trên hệ thống thủy lợi Tả Trạch đảm bảo cho sản xuất

Các đơn vị quản lý, vận hành hệ thống thủy lợi Tả Trạch phải kiểm tra chất lượng nước thường xuyên, đảm bảo cho sản xuất.