Bà T.T.N.T (71 tuổi, ngụ quận 8) thỉnh thoảng đau âm ỉ vùng bụng phải bên dưới, tái đi tái lại, cảm giác căng nặng vùng bụng phải, nghĩ bị viêm đại tràng, nên bà tự mua thuốc uống nhưng không giảm.
Bà nhập viện tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương, qua thăm khám, bác sĩ phát hiện vùng hố chậu phải có khối u giới hạn tương đối rõ, di động kém, mật độ chắc, ấn đau ít.
“Bệnh nhân được chỉ định các xét nghiệm siêu âm và chụp cắt lớp vi tính phát hiện khối u to dạng nang, giới hạn rõ, bờ đa cung vùng hạ vị lệch phải xuất phát từ mặt trong manh tràng dài 136mm, ngang 54mm, nghĩ nhiều u nhầy ruột thừa”, BS.CKII Trần Văn Hiệp, Phó trưởng khoa Ngoại Tiêu hóa cho biết.
Ekip phẫu thuật khoa Ngoại Tiêu hóa, Bệnh viện Nguyễn Tri Phương tiến hành cắt khối u bằng phương pháp phẫu thuật nội soi.
“Đây là phương pháp tiên tiến, ít xâm lấn, ít đau, bệnh nhân nhanh chóng hồi phục, nhưng đòi hỏi sự khéo léo và kinh nghiệm của đội ngũ phẫu thuật viên để tránh làm vỡ khối u nhầy nhưng vẫn phải đảm bảo nguyên tắc an toàn về mặt diện cắt của khối u”, bác sĩ Hiệp thông tin.
Theo bác sĩ Hiệp, với phương pháp này, ekip đã cắt thành công khối u nhầy ruột thừa to với thời gian phẫu thuật khoảng 60 phút và đường mổ dài dưới 5cm. Kết quả mô bệnh học sau mổ cho thấy u tăng sản nhầy (Mucosal hyperplasia).
Sau phẫu thuật, người bệnh được tiếp tục theo dõi và điều trị tại khoa Ngoại tiêu hóa bệnh viện Nguyễn Tri Phương, tình trạng sức khỏe hồi phục tốt, bệnh nhân có thể đi lại sau mổ một ngày, ăn lại vào ngày thứ 2. Hiện bệnh nhân đã được xuất viện sau 5 ngày điều trị.
Theo bác sĩ Hiệp, u nhầy ruột thừa là sự tích tụ chất nhầy bên trong lòng ống ruột thừa và có sự tắc nghẽn ở gốc ruột thừa. Khối u này có thể lành tính hoặc ác tính. Tỷ lệ u nhầy chiếm 0,2 đến 0,4% các trường hợp cắt ruột thừa.
Tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương, trung bình hằng năm tiếp nhận và điều trị khoảng 5 trường hợp và tất cả gần như được điều trị bằng phẫu thuật nội soi.
“U nhầy có thể gặp ở bất cứ độ tuổi nào nhưng thường thấy người trên 35 tuổi, nữ bị nhiều hơn nam. Bệnh thường lành tính, chỉ khoảng 10% có diễn biến thành u ác tính. Trên 50% trường hợp u nhầy ruột thừa không có triệu chứng và được phát hiện do tình cờ đi siêu âm hay chụp cắt lớp điện toán (CT Scan) hay khi mổ thăm dò một bệnh lý khác trong ổ bụng”, bác sĩ Hiệp thông tin.
Gần 50% trường hợp có triệu chứng đau ở hố chậu phải hay đau ở hạ vị. Do u nhầy ruột thừa rất ít triệu chứng do đó siêu âm và chụp cắt lớp là phương tiện hữu hiệu giúp bác sĩ lâm sàng phát hiện bệnh trong đa số trường hợp.
Về mặt giải phẫu bệnh, u nhầy ruột thừa phân làm 4 loại: u nhầy đơn thuần, u tăng sản nhầy, u nang tuyến nhầy, ung thư nang tuyến nhầy.
Chẩn đoán
Chẩn đoán u nhầy ruột thừa trước mổ là cần thiết và quan trọng để tránh làm vỡ u khi mổ gây nên u giả nhầy phúc mạc. U giả nhầy phúc mạc thứ phát có dự liệu rất xấu, giống như một ung thư xâm lấn. U giả nhầy phúc mạc rất khó điều trị dù ngoại khoa hay nội khoa, chẩn đoán cũng rất khó và tỷ lệ sống 5 năm là 53 - 75%
Thường u nhầy ruột thừa không có triệu chứng hoặc chỉ đau âm ỉ ở hạ vị và hố chậu phải. Có thể sờ được khối u vùng hố chậu phải. Một số ít trường hợp có triệu chứng kích thích ở bàng quang do khối u khi quá lớn đè lên thành bàng quang.
Ngoài ra, siêu âm, CT-scan là phương tiện chẩn đoán tốt nhất, có độ nhạy và độ đặc hiệu cao, giúp xác định cấu trúc dạng nang, bờ rõ, tỷ trọng không đồng nhất vùng hố chậu phải, giới hạn u, có vỏ bao ở quanh u, có thể calci hóa ngoại vi dạng viền…
Điều trị
Theo bác sĩ Trần Văn Hiệp, khi bệnh nhân được chẩn đoán là u nhầy ruột thừa thì việc điều trị lúc này rất cần thiết. Nếu không được điều trị kịp thời sẽ dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm.
Để cắt khối nhầy, có thể tiến hành mổ hở hoặc mổ nội soi. Tuy nhiên, tùy thuộc vào điều kiện trang thiết bị của bệnh viện và trình độ cũng như kinh nghiệm của phẫu thuật viên.
Với kỹ thuật mổ nội soi cắt u nhầy ruột thừa là phương pháp phẫu thuật tiên tiến với hiệu quả điều trị tương đương với phương pháp mổ mở cổ điển nhưng đem lại nhiều lợi ích vượt trội cho người bệnh như phục hồi nhanh, giảm thời gian nằm viện, vết mổ thẩm mỹ và tránh biến chứng nhiễm trùng.
"Việc phẫu thuật phải đảm bảo nguyên tắc phẫu thuật khối u và tránh xảy ra trường hợp ruột thừa bị vỡ làm chất nhầy lan vào khoang phúc mạc dẫn đến tình trạng u giả nhầy phúc mạc hoặc khi gặp loại ung thư nang tuyến nhầy mà dễ vỡ hoặc đụng chạm vào thành bụng đều là tai hoạ khó kiểm soát được