Cây nhót còn có tên cây lót, hồi đồi tử, người Tày gọi là lót, bất xá. Nhót thường được nhân dân trồng lấy quả để ăn và nấu canh, làm thuốc người ta dùng lá, rễ và quả, dùng tươi hay phơi khô để làm thuốc.
Thành phần hóa học trong lá nhót chứa tanin, saponosid, polyphenol. Quả nhót chứa rất nhiều chất dinh dưỡng, được dùng để nấu canh chua, vị thơm; quả nhót xanh, thái ngang dày 3 - 5mm, phơi hoặc sấy khô để làm thuốc.
Đông y cho rằng quả nhót có vị chua, chát, tính bình, vào các kinh phế đại tràng, có tác dụng chỉ ho, trừ đờm, bình suyễn, chỉ tả (Quả nhót chua, chát nhưng lại không độc và trung tính, không nóng không lạnh. Nó được dùng chữa rất nhiều loại bệnh như trị ho, hen, khó thở. Dùng 6-12g quả nhót/ngày sắc dưới dạng thuốc để uống hoặc tán bột pha nước uống). Lá có vị chát có tác dụng chỉ ho, bình suyễn, giảm sốt. Nhân hạt nhót có tác dụng sát khuẩn, trị giun sán. Liều dùng hằng ngày với quả 8 - 12g (5 - 7 quả khô), lá tươi 20 - 30g, lá và rễ (khô) 12 - 16g. Dùng ngoài dưới dạng nước tắm, rửa mụn nhọt, không kể liều lượng.
Dưới đây là cách sử dụng nhót chữa bệnh như:
Chữa các chứng ho nói chung: Lá nhót tươi 30g, sắc với nước, thêm chút đường và uống.
Lá nhót dùng tươi hay sấy khô chữa lỵ, cảm sốt, hen xuyễn, nhiều đờm với liều 6 -10g mỗi ngày, dưới dạng bột hay thuốc sắc.
Lao phổi ho ra máu: Lá Nhót tươi 24g, đường 15g; dùng nước sôi hãm như nước trà; ngày uống 2 lần sau bữa ăn.
Nhọt độc phát ở sau lưng (hậu bối), các vết thương chảy máu: Lá nhót tươi, rửa sạch, giã nát, đắp vào chỗ bị bệnh.
Bị ong đốt, rắn cắn: Lá nhót tươi rửa sạch, giã nát vắt lấy nước cốt với rượu uống, còn bã đem đắp vào chỗ bị bệnh.
Thổ huyết, đau họng khó nuốt: Rễ cây nhót 30g sắc với nước uống (trung thảo dược thủ sách).
Phong hàn phế suyễn (phát cơn suyễn do bị nhiễm lạnh): Rễ cây Nhót 30g, đường đỏ 15g, sắc nước uống sau bữa ăn cơm.
Nôn ra máu, khạc ra máu, đại tiện ra máu, kinh nguyệt quá nhiều: Rễ cây Nhót 30 - 60g, sắc nước uống sau bữa ăn cơm.
Phong thấp đau nhức: Rễ cây nhót 120g, hoàng tửu 60g, chân giò 500g, đổ nước vào nấu kỹ, thành món chân giò hầm; ăn thịt và uống nước thuốc.
Hoàng đản (vàng da): Rễ cây nhót 15 - 18g, sắc nước uống.
Phụ nữ sau khi đẻ đau bụng, ỉa chảy ra toàn nước trong kèm theo đồ ăn không tiêu hoá (hạ lị): Dùng rễ cây nhót 60g, đường đỏ 30g, sắc nước uống.
Sản hậu phù thũng: Rễ cây nhót, ích mẫu thảo, mỗi thứ 12g, sắc nước, thêm chút đường đỏ vào uống.
Thấp chẩn (eczema): Rễ cây nhót một nắm (vùng da bị bệnh rộng thì tăng thêm), sắc nước rửa chỗ bị bệnh.
Quả nhót chữa lỵ, ỉa chảy, nhân có tác dụng sát trùng, trị giun sán.
Rễ nhót nấu nước tắm chữa mụn nhọt, không kể liều lượng. Rễ còn có tác dụng cầm máu, giảm đau, thường dùng dưới dạng thuốc sắc, dùng riêng lẻ hoặc phối hợp với các vị thuốc khác.
Trị tiêu chảy có thể dùng 10 quả nhót xanh, 4g rễ nhót, 2g rễ lá mơ để sắc uống mỗi ngày 3 lần sẽ thuyên giảm chứng tiêu chảy.
Chữa vết thương: Hãy dùng lá nhót tươi rửa sạch và giã nát để đắp vào chỗ vết thương. Lá nhót có vị chua, tính bình, vô độc. Dùng chữa các chứng phế hư khí đoản, khái thấu khí suyễn, khái huyết, ung nhọt... vì thế có thể chữa các vết thương chảy máu.
Trị ho, nhiều đờm, hen suyễn. Sao vàng lá nhót 16g, lá táo 12g, hạt cải củ, hạt cải bẹ, mỗi thứ 6g, sau đó giã nát tất cả các nguyên liệu trên rồi gói vào miếng vải sạch, cho vào sắc nước.
Trị ho ra máu, chảy máu cam. Rễ nhót 16g sao đen, sắc uống ngày một thang. Có thể phối hợp với cỏ nhọ nồi, ngải diệp, trắc bách diệp. Tất cả đều sao đen, sắc uống ngày một thang, chia 3 lần uống trước bữa ăn 1,5 giờ.