Đổi nhà nhưng không đổi lòng
12 giờ trưa, mấy đứa học trò ùa vào nhà, tiếng chào ríu rít như một đàn chim sẻ: “Cháu chào ông, cháu chào bà ạ!”.
Đang lúi húi chuẩn bị cơm canh, nghe thấy thế, họ ngẩng mặt lên, đưa tay áo khẽ quệt những giọt mồ hôi, cười lành hiền rồi nói: “Các cháu rửa tay đi rồi vào ăn kẻo đói. Hôm nay có thịt lợn luộc, lòng lợn luộc, măng xào trứng, canh bí, rau bồ công anh đấy!”.
Mấy đứa nhỏ dạ ran rồi cùng nhau xà xuống ngồi quanh mâm cơm, vừa ăn vừa chuyện trò rôm rả. Khách lạ đến nhà cứ ngỡ họ là những người thân ruột thịt nhưng mà hóa ra không phải.
Chuyện nuôi học sinh ăn, ở trong nhà miễn phí như thế này đã diễn ra ở gia đình ông Đinh Xuân Diễn và bà Hà Thị Hoa tại khu Dẹ 1 xã Văn Miếu (huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ) từ những năm 60 của thế kỷ trước, khi trường cấp hai đầu tiên của vùng ra đời.
Ngày đó, vì đường xá cách trở, lại thường bị những cơn lũ rừng chia cắt nên học sinh người Mường, người Kinh, người Dao ở những xã miền núi xa xôi như Khả Cửu, Đông Cửu, Thượng Cửu, Vinh Tiền, Tân Minh… phải ở trọ lại Văn Miếu.
Bố mẹ ông Diễn có căn nhà sàn, lúc đầu dành ra 1 gian cho anh em quen biết gửi con, gửi cháu, sau đó cứ thế học sinh tự rủ nhau về. Nào có nề hà gì, nhà nghèo nhưng rộng bụng, họ đón nhận hết. Vậy là chúng mang theo gạo, củi đến góp rồi nấu nướng cùng ăn những bữa cơm rau, măng với chủ nhà.
Bà Hà Thị Hoa khi đó là học sinh khóa 1965, tuy ở nơi khác nhưng lại có bạn trọ học nơi đây nên thường xuyên đến chơi.
Năm 1973 bà về làm dâu con trong gia đình, cùng ông Diễn dựng lên một căn nhà gỗ kẻ truyền, mái lợp cọ, 4 gian trong đó 3 gian cho hai vợ chồng và 4 người con ở còn 1 gian cho học sinh trọ miễn phí. Việc nông gia khiến bà bận tối mặt còn ông thì làm cán bộ chiếu bóng nên đi Nam về Bắc biền biệt tháng ngày, mãi sau này khi gần già mới xin về huyện làm cho gần vợ, gần con.
Chuyện cho học sinh ở trọ họ không phải bàn nhau một câu nào vì bà bảo, ở cho vui cửa vui nhà, đời bố mẹ chồng đã thế thì đến đời mình tiếp nối như một lẽ tự nhiên.
Khi đàn con còn nhỏ, có học sinh đến, lúc rảnh rỗi thì chúng bế em, đưa võng hay nhá cơm để cho bà đi làm cỏ ruộng, lên nương bẻ măng giang hay hái rau dại. Ngực tức sữa nhiều khi bà phải vắt bỏ cả xuống đất, đến trưa vội sấp ngửa về để chuẩn bị cơm cho con cùng các học sinh.
Nhà nuôi được con ngan, con gà nào thi thoảng bà cũng bắt thịt, nấu chung một nồi, đông người nên phải dàn hàng ra mà cùng ngồi ăn. Mấy đứa con nhỏ của bà có khi còn đòi ngủ chung với các chị học sinh, đắp chung nhau cùng một cái chăn, tranh nhau từ củ khoai, củ sắn lùi.
Khi các con bà nhỉnh hơn một chút, bạn học đến trọ cùng, căn nhà nhỏ lúc nào cũng chật tiếng cười, tiếng nói. Chưa có điện, nhà chỉ có 3 cái đèn dầu nên chúng luân phiên nhau mà ngồi học dưới chiếu.
Khi các con đi học xa, bà phải bán dần đàn trâu để đóng học phí. Nhà vắng, nhớ đến con, bà lại ra hiên ngồi xem có ai đi qua để bắt chuyện. Lắm lúc, buồn đến rơi nước mắt nên có học sinh đến trọ bà thấy như con mình hãy còn ở kề bên.
Hơn 50 năm, đã mấy lần đổi nhà nhưng chưa bao giờ gia đình ông bà lại không có người đến ở trọ. Lứa đầu tiên như Cửu, Lịch, Đỗ… giờ cũng đã 70 tuổi. Lại còn có cả những trường hợp mẹ đến trọ rồi con cũng đến trọ như cô giáo Đinh Thị Đương ở xã Khả Cửu.
Cách đây ngót 20 năm, trường THPT Văn Miếu được thành lập, không chỉ học sinh cấp hai mà cấp ba cũng đến ở.
Mươi năm trước, căn nhà gỗ được thay thế bằng căn nhà mái bằng khang trang, ông bà vẫn dành ra 1 gian cho học sinh trong đó có quạt, điều hòa, giường đệm, bàn ghế, tủ đầy đủ.
Quanh trường có nhiều nhà trọ nhưng không cái nào làm được như vậy nên suốt thời gian qua không có trường hợp nào ở nhà ông bà mà bỏ ngang cả.
Bận đi đâu cũng phải lồng bàn đậy đã
Tôi theo ông ra bờ suối Dát, nơi những luống rau xanh được trồng ngay hàng, thẳng lối bên cái cọn suốt ngày đêm ầm ào đưa nước từ dưới thấp lên cao. Sau khi hái rau, 8h sáng ông lại ra chợ để chuẩn bị cho bữa cơm trưa. Vừa đi ông phải vừa nghĩ xem đổi món gì cho mấy đứa học sinh cùng lũ cháu mình ăn cho đỡ chán.
Cái gì ăn nguội thì ông nấu trước, cái gì ăn nóng thì ông nấu sau để vừa kịp khi các cháu về là cơm canh đã sẵn sàng. 3h chiều, ông lại ra chợ tiếp để mua được đồ tươi chuẩn bị cho bữa tối.
Dù bận đến mấy ông cũng phải nấu xong mâm cơm, đậy lồng bàn để đó cho bà cháu ở nhà rồi mới yên tâm đi bởi “chúng tưởng tôi ở nhà nấu cơm, đi học về lại không có gì ăn thì đói bụng, vả lại tôi đã nấu quen nên các cháu ăn được nhiều hơn bà nó nấu”...
Giờ đây, con ông bà một dạy tiểu học, một trông trường cấp ba, hai dạy hệ mầm non, ở chung chỉ có mỗi anh Đinh Quốc Việt. Vợ chồng Việt sinh được 3 con, đứa lớn nhất lớp 6 còn nhỏ nhất mới 3 tuổi nên ngày ngày bà đảm nhiệm việc trông nom, đưa chúng đi học còn ông thì lo việc cơm nước.
Đã nhiều lần, ông bà bị phụ huynh “ép” lấy tiền điện nhưng đều kiên quyết chối từ: “Các cháu chỉ ở nhà tôi có ba năm, vài trăm ngàn tiền điện một tháng gia đình vẫn còn lo được”. Xưa khó khăn thì tết phụ huynh đem đến ít gạo nếp, cặp bánh chưng nhưng giờ đây thường có thêm đôi gà trống thiến cùng can rượu hoẵng tự ủ.
Coi con người ta cũng như con mình, bà bảo ban chúng chuyện rửa bát xếp ra sao cho nhanh khô, quét nhà ra sao cho sạch, còn ông thì dạy phân biệt việc đúng, việc sai.
Hà Thị Hồng Hạnh - giáo viên trường mầm non Đông Cửu kể khi xưa ở trọ tại đây ông vẫn thường khuyên bảo: “Cầm cái bút hay cầm cái dao, cái cuốc nặng hơn?”. Câu nói đó cứ ám ảnh Hạnh mãi, giúp cho cô học trò nghèo thêm nghị lực để theo đuổi việc học.
Không chỉ thế, ông còn chỉ cho biết giữ phong tục, tập quán. Về đến nhà là học sinh không được nói tiếng Kinh mà chỉ nói tiếng dân tộc mình bởi đã là người Mường phải biết tiếng Mường, phải biết thế nào là “cơm xôi, nước vác, nhà gác, lợn thui, ngày lùi, tháng tiến”…
Dân trí trong vùng giờ đây đã khá cao so với thời ông từ nhà cuốc bộ 3 tiếng đồng hồ đi học ngoài thị trấn rồi trở thành sinh viên cao đẳng đầu tiên của xã. Chúng có thể đi thi đỗ đại học một cách dễ dàng nhưng lại thường chọn học nghề bởi ra trường có việc luôn chứ không phải mòn mỏi chờ đợi.
Hễ biết trường hợp nào ở trọ nhà mình mà xin được việc ông đều đi xe đến tận nơi để mừng cho cả gia đình họ. Vợ là nông dân, lương hưu của ông chỉ có 5 triệu, chẳng lấy gì làm dư dật nhưng ông bảo, đồng tiền ai cũng quý, tình cảm còn quý hơn, thấy ai hạnh phúc thì mình vui, thấy ai bất hạnh thì mình buồn.
Trong ba học sinh lớp 11 đang ở trọ có chị em sinh đôi Hà Thị Hồng Nhung và Hà Thị Kim cùng với một bạn khác là Đinh Thị Hoài Ngọc, tất đều ở xã Khả Cửu, cách trường 15 cây số.
Con đường vào xóm của các em vẫn bằng đất, trời nắng thì lầm bụi, trời mưa thì nhầy nhụa nên lắm buổi bị ngã lấm lem phải ra suối gột rửa cả xe lẫn người rồi mới đi được tiếp. Nhưng lòng hiếu học và tình người vẫn ngời lên trong mắt chúng: “Ông bà nội không còn nữa, xuống đây trọ học, được quan tâm, chúng cháu như thấy ông bà mình vẫn còn sống vậy”.