Là một phần trong Quy hoạch điện VIII, điện khí được Bộ Công thương quan tâm, phát triển, nhằm thực hiện tốt chỉ đạo của Thủ tướng về đảm bảo cung ứng điện cho cả nước, nhất là những dịp cao điểm.
Qua các cuộc họp liên quan tới điện khí, các ý kiến đều thống nhất rằng cần thiết phải xây dựng cơ chế phát triển điện khí để báo cáo Chính phủ nhằm giải quyết một số vướng mắc về phát triển loại hình nguồn điện này.
Trên cơ sở tổng hợp, nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và đặc điểm của Việt Nam, đến thời điểm này Bộ Công thương đã hoàn thành dự thảo về cơ chế mua bán điện khí, báo cáo Chính phủ trước khi lấy ý kiến rộng rãi.
Trong đó, đối tượng áp dụng bao gồm: Đơn vị phát điện sở hữu nhà máy điện khí đấu nối vào hệ thống điện quốc gia; Các đơn vị điện lực như Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), Đơn vị điều độ hệ thống điện và điều hành giao dịch thị trường điện.
Cơ chế cũng quy định cho nhà máy điện khí sử dụng khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) nhập khẩu theo hướng các doanh nghiệp phải chủ động đàm phán, ký kết và chịu trách nhiệm về các hợp đồng, thỏa thuận thương mại. Cơ quan có thẩm quyền đồng ý nguyên tắc cơ chế chuyển ngang giá khí sang giá điện của các nhà máy điện.
Việc quyết định tỷ lệ điện năng qua hợp đồng mua bán điện dài hạn (Qc) ở mức phù hợp trong thời gian trả nợ của dự án LNG nhằm đảm bảo việc thu hút đầu tư dự án điện khí LNG, tránh tác động lên giá bán lẻ cũng như đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng với các loại hình nguồn điện khác trên thị trường điện.
Đối với cơ chế cho nhà máy điện khí sử dụng khí tự nhiên trong nước, cơ quan có thẩm quyền đồng ý nguyên tắc chuyển ngang giá khí sang giá điện của các nhà máy điện và giao các cơ quan, đơn vị có liên quan hướng dẫn cơ chế tiêu thụ sản lượng khí thượng nguồn mỏ khí Cá Voi Xanh, khí Lô B.
Việc mua bán điện vẫn phải thực hiện theo hợp đồng mẫu do Bộ Công thương ban hành để tham gia thị trường bán buôn điện cạnh tranh và bán điện năng của nhà máy điện lên thị trường điện giao ngay. Chi phí mua điện của các nhà máy điện sử dụng khí tự nhiên khai thác trong nước, LNG nhập khẩu là các chi phí hợp lý, hợp lệ và được tính toán điều chỉnh trong giá bán lẻ điện.
Ngoài ra, cơ chế mua bán điện khí cũng quy định chi tiết về ngôn ngữ sử dụng trong hợp đồng, phương thức thanh toán, giải quyết tranh chấp (nếu có), bảo lãnh nghĩa vụ thanh toán.
Theo Quy hoạch điện VIII giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng phê duyệt tại Quyết định số 500/QĐ-TTg ngày 15/5/2023, tổng công suất đặt các nguồn điện đến 2030 là 150.489 MW (gần gấp đôi tổng công suất đặt hiện nay, khoảng 80.000 MW).
Trong đó, tổng công suất các nguồn điện khí phải đầu tư xây dựng mới là 30.424 MW. Riêng khí trong nước là 10 dự án, với tổng công suất 7.900 MW và LNG có 13 dự án với tổng công suất 22.824 MW.
Tính đến nay, mới có Nhà máy nhiệt điện Ô Môn 1 (công suất 660 MW) đã đưa vào vận hành năm 2015, hiện sử dụng nhiên liệu dầu và dự kiến sẽ chuyển sang sử dụng nhiên liệu khí sau khi có khí từ mỏ khí Lô B.
Ngoài ra, Dự án Nhà máy điện Nhơn Trạch 3 và Nhơn Trạch 4, công suất 1.624 MW, tiến độ đạt 85%, đang được khẩn trương hoàn thành. Dự án này sử dụng LNG từ Kho cảng LNG Thị Vải (đã hoàn thành thi công và sẵn sàng đưa vào sử dụng).
18 dự án đang trong quá trình chuẩn bị đầu tư xây dựng, tổng công suất 23.640 MW, và 3 dự án đang lựa chọn nhà đầu tư với tổng công suất 4.500 MW, gồm các dự án Cà Ná, Nghi Sơn, Quỳnh Lập.
Bộ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Hồng Diên đánh giá, các dự án điện khí trong Quy hoạch điện VIII là nguồn năng lượng vô cùng quan trọng, không chỉ bảo đảm đủ tổng nguồn trong quy hoạch, mà còn là nguồn điện nền để huy động, khai thác nguồn năng lượng tái tạo như điện gió, điện mặt trời.