| Hotline: 0983.970.780

Khẳng định niềm tin vào nền nông nghiệp Việt Nam

Thứ Tư 03/02/2010 , 12:02 (GMT+7)

Phải khẳng định nông nghiệp là một lợi thế to lớn của Việt Nam, với trên 9 triệu ha đất nông nghiệp, trong đó có hai vùng đồng bằng phì nhiêu...

1. Phải khẳng định nông nghiệp là một lợi thế to lớn của Việt Nam, với trên 9 triệu ha đất nông nghiệp, trong đó có hai vùng đồng bằng phì nhiêu là vùng đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng, là những vùng trồng lúa được xếp vào loại tốt nhất của thế giới; có vùng đất đồi núi bao la có thể phát triển cây công nghiệp và rừng; có bờ biển dài tới 3.200 km, cùng với diện tích mặt nước lớn khác có thể phát triển thuỷ sản. Lợi thế về tài nguyên thiên nhiên: đất nông nghiệp, đất rừng, mặt nước, cộng với hàng chục triệu nông dân vừa cần cù, vừa thông minh, lại có học vấn khá và năng động, tạo nên hai nguồn lực “trời cho” hiếm có so với nhiều nước trên thế giới.

Với lợi thế đó, Việt Nam có thể phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá mạnh, có sức cạnh tranh cao trong khu vực và thế giới, có thể làm giàu cho nông dân, làm giàu cho đất nước. Không được phép cho rằng nông nghiệp, nông thôn, nông dân là “gánh nặng” của đất nước trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, từ đó nảy sinh ý tưởng “chia sẻ”, “giúp đỡ”, “ban ơn” cho nông dân. Nông nghiệp Việt Nam có quyền và có đủ khả năng bình đẳng với công nghiệp, dịch vụ; nông dân có quyền và có đủ khả năng bình đẳng với thị dân; nông thôn có quyền và có đủ khả năng bình đẳng với thành thị.

2. Nền nông nghiệp hàng hoá Việt Nam có sức cạnh tranh cao, phát triển bền vững phải dựa vào 4 trụ cột: tập trung hoá trên cơ sở tích tụ đất đai, chuyên môn hoá, hiện đại hoá và sử dụng công nghệ xanh. Đó là tiền đề và cơ sở để nông nghiệp hàng hoá Việt Nam có sức cạnh tranh cao và phát triển bền vững.

Trên thế giới, quy mô tích tụ có nhiều dạng:

Một, đồn điền tư bản cực lớn: áp dụng công nghệ hiện đại, dựa vào bóc lột lao động làm thuê, gây nên xung đột gay gắt giữa lợi ích kinh tế và xã hội. Tuy phương thức tổ chức này có thể tồn tại trong một thời kỳ lịch sử nào đó, ở một số nước nào đó, nhưng nói chung sẽ đổ vỡ, khó đứng vững lâu dài.

Hai, đồn điền lớn của các chủ đầu tư, cũng dựa chủ yếu vào lao động làm thuê, giá thành “giám sát” cao, hiệu quả kém.

Ba, nông trại hàng hoá gia đình: quy mô tương đối lớn, có thuê nhân công, nhưng chủ yếu dựa vào lao động trực canh của gia đình, chủ gia đình là chủ nông trại. Đây là hình thức tổ chức kinh doanh có hiệu quả nhất được thừa nhận của nông nghiệp hàng hoá trong thế giới đương đại. Tuỳ vào đối tượng sinh vật cây và con, mức độ “ỷ lại” vào thiên nhiên của công nghệ canh tác để tính toán quy mô phù hợp. Chẳng hạn, nếu sử dụng công nghệ được điều khiển, khống chế được ảnh hưởng của thời tiết, các tác nghiệp được kiểm soát bằng máy, thì có thể dựa vào lao động làm thuê, quy mô có thể lớn hơn.

Hiện nay, trong thực tế của nền kinh tế thị trường, Hiệp hội các ngành hàng nông sản đã ra đời, nhưng thực chất là Hiệp hội các doanh nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản. Trong hoạt động thực tế, các Hiệp hội này thiên về bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp, không quan tâm đến lợi ích của nông dân, có trường hợp đối đầu với lợi ích nông dân. Vì vậy, ngoài tổ chức Hội nông dân, Hợp tác xã nông nghiệp, cần lập thêm các Hiệp hội nông dân sản xuất nguyên liệu để giúp nhau trong sản xuất và tiêu thụ, đấu tranh bảo vệ lợi ích của những người sản xuất nguyên liệu trong quá trình phát triển hàng hoá theo cơ chế thị trường.

Bốn, kinh tế tiểu nông dựa vào ruộng đất của gia đình tiểu nông, quy mô nhỏ và siêu nhỏ, sản xuất tự cung tự cấp, dựa vào thiên nhiên, công nghệ sản xuất lạc hậu, năng suất rất thấp, sức cạnh tranh kém, hiệu quả rất thấp. 

3. Bức tranh toàn cảnh nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam, trong vài thập kỷ tới ắt có nhiều biến đổi. Cục diện sản xuất hàng hoá lớn ra đời, nông thôn hiện đại và văn minh xuất hiện từng bước, cộng đồng nông dân sẽ đạt mức sống trung lưu, nhưng vẫn còn cấu trúc nhị nguyên. Một phần nông thôn, nông dân, nông nghiệp ở vùng sâu, vùng cao, vùng xa, nơi cư trú của đồng bào các dân tộc thiểu số, do điều kiện tự nhiên cực kỳ khó khăn như đất dốc, khí hậu khắc nghiệt, kết cấu hạ tầng cực kỳ lạc hậu, dân trí thấp, thói quen sống dựa vào thiên nhiên và nhiều nguyên nhân khác về lịch sử làm cho vùng này sẽ còn tồn tại khá lâu dài phương thức kinh tế tiểu nông, tự cấp tự túc, do đó cơ cấu nhị nguyên trong nông nghiệp, nông thôn nước ta còn tồn tại một thời kỳ khá dài, rất khó tiên lượng.

4. Về một số giải pháp cần quan tâm

+ Đổi mới nhận thức của nông dân:

Tư duy của nông dân, nhất là nông dân phương Đông, trong đó có nông dân Việt Nam (nhất là nông dân tiểu nông ở những vùng chưa phát triển sản xuất hàng hoá), quen sống tự cấp tự túc, việc tiếp nhận phương thức làm sản xuất nông nghiệp tập trung hoá, chuyên môn hoá, hiện đại hoá, công nghệ xanh cực kỳ khó khăn. Một bộ phận khá lớn nông dân vẫn luyến tiếc ruộng đất tổ tiên, thậm chí khi đã bỏ nghề nông tìm được việc làm khác, vẫn giữ mảnh đất tổ tiên như một phương tiện “phòng thân” khi gặp bất trắc.

Phải đổi mới tư duy của họ để tự họ thấy rằng muốn nông dân giàu lên thì phải giảm số lượng nông dân, chuyển đất cho người làm nông nghiệp giỏi để số người dôi ra làm giàu bằng nghề khác, đôi bên đều có lợi.

+ Ban hành các chính sách tích tụ đất đai thuận lợi và các chính sách mở mang các ngành nghề phi nông nghiệp. Trước mắt, bên cạnh việc mở ngành nghề dựa vào doanh nghiệp nông thôn trong nước phải đồng thời tạo mọi điều kiện để người nông dân xuất khẩu lao động ở nước ngoài để giảm bớt sức ép tức thời về việc làm.

+ Về giáo dục đào tạo:

Giúp đỡ nông dân đào tạo các loại nghề để chuyển sang nghề phi nông nghiệp. Với nông dân làm chủ nông trại, phải được đào tạo có bài bản, đảm bảo các chủ trang trại phải có chứng chỉ hành nghề về quản trị trang trại, bước đầu là trình độ bắt buộc về trung cấp, sau đó là cao đẳng, tới sau năm 2030 trở đi bắt buộc phải có trình độ đại học quản trị kinh doanh. Khuyến khích mở các loại trường riêng để đào tạo về lĩnh vực này. Ban hành các chính sách cho phép các trường này được hưởng những ưu đãi tối đa của Nhà nước.

+ Về các tổ chức của nông dân:

Đảng và Nhà nước ta giúp đỡ nông dân tự thành lập ra các tổ chức của chính mình để tự bảo vệ lợi ích chính đáng của mình.

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cao điểm phòng trừ sâu cuốn lá nhỏ hại lúa xuân vào dịp nghỉ lễ 30/4

Theo Trung tâm BVTV phía Bắc, thời điểm phòng trừ tập trung sâu cuốn lá nhỏ từ 25/4 - 5/5. Sau khi phun lần 1, nếu mật độ còn cao tổ chức phun trừ lần 2.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm