| Hotline: 0983.970.780

Làng 'công tra' - Chuyện bây giờ mới kể: Nhân chứng sống ở Dầu Tiếng

Thứ Tư 14/07/2021 , 08:54 (GMT+7)

Quan hệ giữa chủ đồn điền và phu cao su là quan hệ chủ - tớ, nên chuyện phu bị cai ức hiếp, đánh đập, bị phạt là có. Còn lại, mọi thứ thế nào?

Trong khi Lộc Ninh có 10 làng “công tra” thì ở Dầu Tiếng có đến 22 làng. Và hiện vẫn còn những người từng đi “công tra”. Chúng tôi đã gặp, nghe họ kể về cuộc sống, công việc ở đồn điền, và cách làm việc của những người chủ Pháp.

1.

Người đầu tiên chúng tôi gặp theo giới thiệu của lãnh đạo Công ty Cao su Dầu Tiếng là ông Dương Văn Lễ, năm nay 85 tuổi, ở xã Định An huyện Dầu Tiếng, nguyên đội trưởng nông trường cao su Dầu Tiếng. Ông Lễ từng đi “công tra” từ năm 1954 đến năm 1965. Thời điểm ông làm phu cao su, người Pháp đã rút về nước, nhưng các đồn điền cao su vẫn do các chủ người Pháp cai quản. Ông Lễ nói rằng, cách làm việc của người Pháp khá bài bản, khoa học, người công nhân không còn cảnh sống cực khổ, bị bóc lột như trước đó mấy chục năm.

Ông Dương Văn Lễ đang hồi ức về làng 'công tra' xưa. Ảnh: Trần Trung.

Ông Dương Văn Lễ đang hồi ức về làng "công tra" xưa. Ảnh: Trần Trung.

“Đối với chủ đồn điền, họ làm việc theo kiểu tư bản, tôi và anh thoả thuận làm việc bằng giấy trắng mực đen, anh vi phạm là tôi “xử”, không có chuyện tình cảm ở đây. Chế độ tốt, phát gạo, phát đồ ăn đầy đủ hết. Họ thường mua thực phẩm về bán lại cho phu với giá rẻ hơn mua ngoài. Một số người buôn bán nhỏ cũng xin phép chủ đồn điền mang đồ vào bán, chủ đồng ý với điều kiện bán cho phu với giá vừa phải chứ không được “chặt chém”. Đồng ý thì cho vào. Nếu cố tình bán đắt, bị phát hiện, không bao giờ cho vào bán tiếp.

Tôi nhớ hồi đó làm mỗi tháng được trả lương 37 đồng. Hàng ngày, có xe đưa đón những người ở xa. Quy định một tuần làm 6 ngày là đúng 6 ngày, không bao giờ tăng ca hay làm chủ nhật. Mỗi ngày quy định làm 8 tiếng nhưng không tới. 6 giờ sáng ra vườn cạo, đến khoảng 9 rưỡi, thậm chí người làm giỏi thì chỉ 9 giờ là xong việc buổi sáng.

Vườn cao su thời Pháp thuộc ở xã Định An, huyện Dầu Tiếng, Bình Dương. Ảnh: Trần Trung.

Vườn cao su thời Pháp thuộc ở xã Định An, huyện Dầu Tiếng, Bình Dương. Ảnh: Trần Trung.

Tại đồn điền cao su của người pháp, họ chia 3 loại công, công đen là buổi sáng cạo 1 phần (1 phần tương đương 250 cây nhóm 1 là loại cây mới mở miệng, và 380 cây nhóm 2 là loại cây sắp thanh lý, cạo nhanh hơn). Còn buổi chiều 2 người cạo 1 phần nữa, nếu sản lượng mủ thiếu, họ bắt mình cạo thêm buổi chiều 3 người 2 phần, nếu thiếu nữa bắt mình cạo buổi sáng 1 phần, chiều 1 phần. 3 loại công này được trả tiền khác nhau, công đen 37 đồng, loại công thứ hai được hơn 40 đồng, công thứ 3 là công đỏ (sáng 1 phần, chiều 1 phần) được trả 49 đồng, giống như trả tiền ngoài giờ. Định mức họ giao như vậy là nhẹ, buổi sáng có khi chỉ cạo tới 9 rưỡi, có người cạo giỏi tới 9 giờ đã xong. Ngoài ra, nhóm 2, loại cây cạo ghế, tức phải bắc ghế cạo trên cao, họ giao định mức 1 ngày chỉ 306 cây, còn được nhận thêm tiền vác ghế nữa", ông Lễ kể một mạch.

Tái hiện cảnh những phu cao su ở đồn điền cao su Dầu Tiếng ngồi lai rai sau giờ làm việc. Ảnh: Phúc Lập.

Tái hiện cảnh những phu cao su ở đồn điền cao su Dầu Tiếng ngồi lai rai sau giờ làm việc. Ảnh: Phúc Lập.

“Vườn cao su thời Pháp có phát triển tốt không chú?”, tôi hỏi. “Tốt chứ, cây đều đẹp. Một phần do họ đầu tư khâu cây giống tốt, cây trồng thưa, đều. Tiếp đến là quy trình trồng, chăm sóc bài bản. Sớm nhất là cây 7 tuổi mới mở miệng chứ không cạo non. Nhờ vậy mà sản lượng, chất lượng mủ rất cao”, ông Lễ nói.

“Nghe nói thời Pháp, phu cao su không cạo mủ ban đêm, vì sao vậy chú?”, tôi thắc mắc. Ông Lễ đáp: “Nhiều lý do lắm. Mủ cao su vốn kỵ nắng nóng, nếu cạo trong thời tiết này, mạch mủ chưa kịp xuống chén có khi đã bị khô, dính trên máng rồi. Một lý do nữa là thời Pháp họ giao định mức thấp, chỉ cạo từ 6 giờ đến khoảng hơn 9 giờ là xong, thời điểm còn mát, nên không cần thiết phải cạo đêm. Và 1 lý do nữa, là nếu cạo ban đêm, họ không quản lý được”.

2.

Người thứ 2 chúng tôi gặp là ông Nguyễn Thanh Long (Tư Long), sinh năm 1946, nguyên đội trưởng ở Công ty Cao su Dầu Tiếng, nay về hưu ở xã Định An, huyện Dầu Tiếng. Mặc dù không làm “công tra”, nhưng ông Tư Long cũng là người biết khá rõ “thế sự”, cuộc sống phu cao su thời Pháp thuộc.

Ông Tư Long đang kể chuyện về làng 'công tra' Dầu Tiếng. Ảnh: Phúc Lập.

Ông Tư Long đang kể chuyện về làng "công tra" Dầu Tiếng. Ảnh: Phúc Lập.

Ông Long kể: Cha ruột tôi là Nguyễn Văn Nội, từ miền Bắc vào làm phu cao su năm 1937. Theo lời cha kể lại thì thời ông làm “công tra”, tụi Pháp cũng đánh dữ lắm. Nhưng không phải vô cớ nó đánh. Mà một phần cũng do mình. Đó là những trường hợp ký hợp đồng lao động rồi sau đó không chịu nổi vất vả, bỏ trốn. Tụi Pháp nó không đi bắt lại đâu mà rao ai bắt được những người bỏ trốn giao lại, sẽ được thưởng tiền. Nên ai thấy báo họ đến bắt, hoặc những người làm trong chính quyền thuộc Pháp họ bắt giao lại cho chủ Pháp.

Thực chất, đánh đập phu hay là lính thuê. Ba tôi cũng từng bị đánh, đánh lên bờ xuống ruộng, thanh niên mới vào làm biếng, say nắng, ngang bướng nên bị đánh.

Cảnh cân mủ ở đồn điền cao su Lộc Ninh. Ảnh tư liệu. 

Cảnh cân mủ ở đồn điền cao su Lộc Ninh. Ảnh tư liệu. 

Giới chủ Pháp không hẳn là những kẻ máu lạnh, họ cũng có trách nhiệm với người lao động, bằng việc chăm lo đời sống cho phu, và cả vợ con của họ. Cũng giống như Lộc Ninh, ở Dầu Tiếng, người Pháp xây dựng trường học, nhà thờ, hồ bơi, bệnh viện. 22 làng "công tra", nhà xây hết, một nhà ngăn đôi cho 2 gia đình ở. Ngày chủ nhật, chủ đồn điền cho xe chở công nhân đi chợ, mua thức ăn cho 1 tuần. Ngoài ra, còn có xe cứu thương chờ sẵn, nếu ai bệnh là lập tức chở đi bệnh viện ngay.

Tôi tìm hiểu thì được biết, từ giai đoạn đầu mới hình thành đồn điền cao su, kéo dài mấy chục năm sau, phu cao su thực sự là khổ, bị đàn áp, đánh đập, bớt xén tiền lương… đủ cả. Công nhân ở các đồn điền cao su thường bị đánh bằng roi gân bò. Đối với phu đồn điền bỏ trốn, nếu bị bắt lại, bị đánh đập rất dã man, thậm chí là cái chết. Trong cuốn Ghi chép “Việt Nam, bi thảm Đông Dương” của tác giả người Pháp Louis Roubaud viết: “Đêm qua 30 người thợ bỏ trốn. Người ta ra lệnh cho cai và giám thị đem theo cả quần áo đi tìm. 12 người trong số họ nay đã tìm thấy. Họ bị kiệt sức trong khi đi đường và lại khát rốc. 12 người kia bị lột quần và bắt nằm sấp xuống đất. Bọn cai và giám thị cầm roi hành hạ, mỗi người bị 20 chiếc roi mây, đó là cảnh cáo cho lần đầu trốn”.

Giới chủ người Pháp không ai dám chắc có chỉ đạo đám tay sai đánh phu hay không, nhưng chúng chắc chắn biết và phớt lờ.

Hệ thống máy chế mủ cao su ở vườn cao su thời Pháp thuộc (xã Định An, huyện Dầu Tiếng). Ảnh: Phúc Lập.

Hệ thống máy chế mủ cao su ở vườn cao su thời Pháp thuộc (xã Định An, huyện Dầu Tiếng). Ảnh: Phúc Lập.

Ba tôi hồi mới vào làm “công tra”, ban đầu nó chỉ cho đi phát cỏ chứ không được cạo mủ, sau một thời gian nó mới cho cạo. Trong quy trình chăm sóc cây cao su, tụi Pháp kỹ lắm, dây quấn làm kiềng máng mủ là phải quấn bằng lò xo, để khi cây lớn, lò xo dãn ra, không gây thắt thân cây như dùng dây ni lông bây giờ.

Đặc biệt, những vườn cao su của người Pháp trồng trên những quả đồi có độ dốc, họ thiết kế những đường mương nước chạy ngang lưng đồi. Mỗi mương cách nhau khoảng 10m, từ trên đỉnh xuống gần chân đồi. Nhìn có dạng như ruộng bậc thang. Mục đích của những mương nước này là giữ nước, giữ phân, chất màu của đất. Khi mưa lớn, nước từ đỉnh đồi tràn xuống, mương sẽ giữ nước lại, khi mương trên cùng đầy, sẽ tràn xuống mương dưới. Cây cao su không giữ được nước, nếu độ dốc cao, mưa lớn, không chỉ chất màu của đất, mà phân bón cũng trôi tuột hết. Nhờ những mương nước này mà toàn bộ phân bón cho cây không bị mất.

“Làng "công tra" là mô hình khép kín, bên trong có đủ nhà ở của phu cao su, nhà kho, cửa hàng tạp hóa. Nhà phu hay còn gọi là nhà điểm, là nơi phu cao su đến để nhận và trả công cụ lao động. Nhà này cũng là nơi trước khi đi làm, phu cao su phải tập trung để điểm danh. Ngoài ra còn có hồ bơi, bệnh viện, nhà thờ, chùa, nhà giữ trẻ và phòng học cho học sinh tiểu học", ông Hoàng Văn Phước, cán bộ hưu trí ở thị trấn Lộc Ninh, Bình Phước.

Xem thêm
Sống lại ký ức hào hùng trên tuyến đường 1C huyền thoại

KIÊN GIANG Tuyến đường 1C nối đường Hồ Chí Minh trên bộ nhằm vận chuyển hàng hóa, vũ khí, thuốc cứu thương, nhu yếu phẩm và đưa rước cán bộ chi viện cho chiến trường miền Nam.

Thứ trưởng Nguyễn Quốc Trị: Điều tra, xử lý nghiêm hành vi gây cháy rừng

Ngày 28/4, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Nguyễn Quốc Trị đã có buổi làm việc với tỉnh Hà Giang về tình hình sản xuất nông nghiệp và công tác phòng cháy, chữa cháy rừng.

Du khách ở TP.HCM sắp được trải nghiệm xe điện

TP.HCM Sẽ có 70 xe điện được đưa vào phục vụ khách. Thời gian hoạt động từ 6-24 giờ hằng ngày, thí điểm trong 2 năm (từ quý II/2024 đến hết năm 2025).

Ùn tắc bến phà ra đảo Cát Bà dịp 30/4 và 1/5

HẢI PHÒNG Ngày 28/4, hàng nghìn người đã ùn ùn đổ về bến phà Đồng Bài để ra đảo Cát Bà khiến giao thông tắc nghẽn.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm