Theo Viện Quy hoạch Thủy lợi Miền Nam, số liệu của Ủy hội sông Mê Kông Quốc tế cho thấy, dòng chảy trên thượng nguồn sông Mê Kông tại trạm Kratie trong tháng 9 có xu thế tăng mạnh vào 2 đợt. Đợt 1 vào giữa tháng 9 (do ảnh hưởng mưa lớn từ cơn bão Conson) và đợt 2 vào các ngày cuối tháng 9 (do ảnh hưởng mưa lớn từ ATNĐ).
Đến ngày 30/09 mực nước sông Mê Công đạt 16,69 m. So với cùng kỳ: thấp hơn trung bình nhiều năm (TBNN) là 1,04 m; cao hơn năm 2020 là 2,25 m.
Diễn biến mực nước Biển Hồ trong tháng 9 có xu thế tăng khá mạnh nhưng vẫn ở mức thấp. Đến ngày 30/9 mực nước đạt 5,59 m; so với cùng kỳ thấp hơn TBNN là 2,8 m; cao hơn năm 2020 là 1,4 m.
Tương đồng với xu thế mực nước, dung tích Biển Hồ đến ngày 30/9 đạt 23,19 tỷ m3. So với cùng kỳ thấp hơn TBNN là 27,17 tỷ m3; cao hơn năm 2020 là 9,93 tỷ m3.
Theo kết quả dự báo của Trung tâm Đại dương và Khí quyển Quốc gia Hoa Kỳ (NOAA), chuẩn sai mưa dự báo trên lưu vực hạ lưu sông Mê Kông trong tháng 10 hầu hết cao hơn TBNN, với chuẩn sai dương phổ biến từ 0,5 – 2 mm/ngày. Chỉ riêng một số nơi trên khu vực Thượng Lào và Tây Nam Campuchia lượng mưa xấp xỉ TBNN.
Về thủy triều trong tháng 10, đỉnh triều chủ yếu đạt vào các ngày cuối tuần 3 của tháng, cao nhất tại trạm Trần Đề đạt 2,21 m, thấp nhất tại trạm Hà Tiên đạt 0,52 m. Chân triều thấp nhất đạt vào các ngày trong tuần cuối tháng 10, thấp nhất tại trạm Vũng Tàu đạt - 2,16 m, cao nhất tại trạm Sông Đốc đạt 0,01 m.
Đỉnh triều dự báo tháng 10/2021 cao hơn TBNN, nhưng thấp hơn đỉnh triều các năm 2019, 2020 cùng kỳ. Đỉnh triều cao nhất tại Gành Hào đạt 2,20 m. So với cùng kỳ: cao hơn TBNN 0,54 m; thấp hơn năm 2020 0,18 m.
Với những đặc điểm về nguồn nước, mưa và thủy triều, đỉnh lũ đầu nguồn sông Cửu Long có khả năng xuất hiện vào trung tuần tháng 10. Cụ thể: đỉnh lũ tại Tân Châu dao động ở mức 2,8 - 3,1 m, thấp hơn khoảng 0,4 - 0,7 m so với BĐ1 (3,5m), thấp hơn TBNN khoảng 0,6 - 0,9 m; đỉnh lũ tại Châu Đốc dao động ở mức 2,5 - 2,8 m, thấp hơn khoảng 0,2 - 0,5 m so với BĐ1 (3,0 m), thấp hơn TBNN khoảng 0,5 - 0,8 m.
Về lũ nội đồng, ở vùng Thượng ĐBSCL, mực nước cao nhất dự báo biến đổi từ 1,8 – 3,50 m (dưới mức BĐ1 khoảng 0,5 - 0,7 m). Trong đó, mực nước cao từ 2,60 – 3,50 m tập trung ở các huyện đầu nguồn phía trên như: huyện An Phú, Thị xã Tân Châu và huyện Phú Tân của tỉnh An Giang, huyện Hồng Ngự, Thị xã Hồng Ngự và huyện Tân Hồng của tỉnh Đồng Tháp, các khu vực ở phía dưới, xa sông chính mực nước ở mức thấp dưới 2,60 m.
Ở vùng giữa ĐBSCL, đỉnh lũ kết hợp triều cường được nhận định ở mức BĐ2 - BĐ3. Còn ở vùng ven biển ĐBSCL, đỉnh lũ kết hợp triều cường được nhận định ở mức BĐ2 - BĐ3 và trên BĐ3.
Đỉnh lũ khu vực đầu nguồn sông Cửu Long được nhận định ở mức thấp dưới mức BĐ1, nên về cơ bản, các khu sản xuất nông nghiệp trên các tỉnh đầu nguồn sông Cửu Long thuộc vùng thượng không bị ảnh hưởng bởi lũ.
Do chịu tác động mạnh bởi thủy triều (đỉnh triều dự báo cao hơn TBNN), nên đỉnh lũ được nhận định ở mức BĐ2 - BĐ3 và trên BĐ3 ở vùng giữa và vùng ven biển ĐBSCL. Khi lũ kết hợp triều cường sẽ có nguy cơ ảnh hưởng đến các khu vực thấp trũng trên 2 vùng này.
Viện Quy hoạch Thủy lợi Miền Nam nhận định, mức lũ hiện nay thấp và nhận định lũ chính vụ ở mức thấp, nên hầu như không ảnh hưởng đến sản xuất trên địa bàn các tỉnh vùng thượng ĐBSCL.
Tuy nhiên, do triều dự báo ở mức cao hơn khá nhiều TBNN, nên cần đề phòng những khu vực sản xuất chịu tác động mạnh của thủy triều cụ thể là vùng Giữa và vùng Ven Biển ĐBSCL, đặc biệt là những khu sản xuất có cao trình ô bao thấp, hoặc bị xuống cấp.