Ngày 15/12, Hiệp hội Nước mắm Việt Nam phối hợp với Hội nghề cá Việt Nam và Viện Nghiên cứu hải sản (Bộ NN-PTNT) tổ chức hội thảo "Bảo vệ nguồn cá, phát triển bền vững ngành sản xuất nước mắm ở Việt Nam".
Ba trụ cột tạo nguồn nguyên liệu bền vững
Bất cứ sản phẩm tiêu dùng nào, nhất là sản phẩm liên quan đến ăn uống, thì nguyên liệu đầu vào vô cùng quan trọng. Trong ngành sản xuất nước mắm, việc duy trì hoạt động khai thác cá, chế biến là yếu tố tiên quyết để ngành nước mắm ngày càng phát triển.
Chia sẻ tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Phùng Đức Tiến nhấn mạnh: “Để có nước mắm thì phải có cá. Để có cá thì phải vừa nuôi trồng, vừa khai thác vừa bảo tồn. Ba trụ cột này không thể tách rời được”.
Cũng theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến, đến năm 2030, chúng ta giảm sản lượng khai thác xuống chỉ còn 2,8 triệu tấn, sản lượng thuỷ sản nuôi trồng đạt 7 triệu tấn, vì hiện nay cường lực khai thác quá lớn.
Theo số liệu công bố của Tổng cục Thống kê, sản lượng nước mắm bình quân của Việt Nam trong năm 2020 đạt gần 280 triệu lít, tính trung bình người Việt Nam ăn nước mắm khoảng 3,9 lít/người/năm; giá trị xuất khẩu nước mắm hàng năm khoảng 25 triệu USD.
Ông Đinh Xuân Lập, Phó Giám đốc Trung tâm Hợp tác quốc tế Nuôi trồng và Khai thác thuỷ sản bền vững (ICAFIS, thuộc Hội Nghề cá Việt Nam) chia sẻ: Muốn xuất khẩu nước mắm, sản phẩm của chúng ta phải đáp ứng được yêu cầu của từng thị trường. Điển hình như thị trường Mỹ yêu cầu nước mắm phải đáp ứng các tiêu chuẩn của FDA (Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ), đáp ứng các nguyên tắc trong việc thiết lập hệ thống quản lý an toàn thực phẩm (HACCP). Thị trường Châu Âu thì kiểm tra rất chặt chẽ về tiêu chuẩn Histamine. Các thị trường Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc đều yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm và giấy phép an toàn chất lượng nhập khẩu.
Đặc biệt, các nước nhập khẩu yêu cầu ngày càng cao hơn nữa về việc chống khai thác cá bất hợp pháp, không theo quy định và không báo cáo (IUU).
“Quyết định 1005 của EC cũng đã nêu rõ, các sản phẩm thuỷ sản cũng như các sản phẩm bắt nguồn từ thuỷ sản khi xuất khẩu sang Châu Âu phải có giấy xuất xứ nguồn gốc thực hành IUU. Tại thị trường Mỹ cũng có chương trình kiểm soát các sản phẩm khai thác từ thuỷ sản vào thị trường Mỹ, và IUU cũng là yêu cầu các quốc gia phải thực hiện”, ông Lập nhấn mạnh.
Do vậy, ngành hàng sản xuất nước mắm, ngoài việc đáp ứng yêu cầu đảm bảo vệ sinh thực phẩm, bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng, phải có trách nhiệm về nghề cá. Đây là lộ trình chung và cũng là cam kết của Việt Nam với thị trường Quốc tế.
Xuất khẩu nước mắm trước cơ hội lớn
Cũng theo ông Đinh Xuân Lập, điểm mạnh ngành sản xuất nước mắm của Việt Nam là có nguồn nguyên liệu khá dồi dào với 2,45 triệu tấn. Nghề mắm có bề dày 500 – 600 năm, nên có đội ngũ rất lành nghề. Bên cạnh đó, khai thác thuỷ sản đã hình thành liên kết được từ khâu khai thác đến cơ sở chế biến nước mắm, với sản phẩm nước mắm của nước ta được đánh giá là giàu dinh dưỡng, giàu đạm.\
Tuy nhiên, điểm yếu của chúng ta là khâu bảo quản sau khai thác còn hạn chế, chưa kiểm soát được chỉ tiêu về Histamine; mối liên kết mặc dù có nhưng còn lỏng lẻo, chưa chặt chẽ. Cả nước có 783 cơ sở sản xuất và 1.500 hộ tham gia làm nước mắm, tuy nhiên các cơ sở áp dụng vệ sinh an toàn thực phẩm như HACCP và ISO còn chưa nhiều.
Ngoài ra, các tàu khai thác ven bờ của nước ta chưa trang bị đầy đủ các thiết bị theo quy định của IUU, cụ thể là hệ thống giám sát tàu cá. Tàu còn nhỏ, phương tiện thô sơ, nhận thức của người dân chưa cao, chi phí khai thác lớn. Đồng thời, nguồn lợi hải sản ven bờ ngày càng cạn kiệt do các vấn đề môi trường, biến đổi khí hậu.
Về cơ hội xuất khẩu nước mắm, ông Đinh Xuân Lập chia sẻ: Hiện nay, Việt Nam đã ký 13 hiệp định thương mại tự do. Những hiệp định này mang lại cơ hội về giao thương, kết nối sản phẩm cũng như xuất khẩu. Bộ NN-PTNT, Bộ Y tế, Bộ Công thương cần quan tâm hỗ trợ cho các sản phẩm thuỷ sản và sản phẩm nước mắm. Khách hàng phương Tây đã bắt đầu quan tâm đến nước mắm Việt Nam, đó là cơ hội rất lớn cho chúng ta.
Để phát triển ngành hàng nước mắm, ông Đinh Xuân Lập kiến nghị, cần thiết lập các mô hình quản lý nguồn lợi dựa vào cộng đồng, hướng tới khai thác bền vững nguồn lợi thuỷ sản cho sản xuất nước mắm, lấy nền tảng là các chi hội nghề cá. Đồng thời, tăng cường liên kết với các Hiệp hội nước mắm để thúc đẩy việc phát triển ngành hàng nước mắm và đưa nước mắm Việt ra thế giới.
Theo Viện Nghiên cứu Hải sản, ở nước ta, nguyên liệu chính để sản xuất nước mắm là nhóm cá đầu nhỏ với trữ lượng khoảng 2,45 triệu tấn, nhất là cá nục, cá trích, cá cơm. Cá nục là đối tượng chiếm ưu thế ở Vịnh Bắc bộ và Trung bộ, cá cơm chiếm ưu thế ở vùng Tây Nam bộ và một phần khu vực Bắc Trung bộ, cá trích phân bố rải rác ở toàn bộ vùng biển ven bờ, có mật độ phân bố cao ở Vịnh Bắc bộ.
Tuy nhiên, nguồn lợi hải sản biển Việt Nam đang bị khai thác quá mức và hiện tại đang trong tình trạng suy giảm. Do đó, để bảo vệ và phát triển bền vững nguồn lợi hải sản, cần sử dụng các loài cá có giá trị dinh dưỡng khác để làm nguyên liệu sản xuất nước mắm, thay thế cho nguồn lợi cá cơm đang bị suy giảm.
Đặc biệt là nghiên cứu đặc điểm sinh học của các loài hải sản, xác định vị trí các bãi đẻ, bãi giống hải sản, xác định mùa sinh sản để làm cơ sở cho việc bảo vệ nguồn lợi (cấm hoặc hạn chế khai thác có thời hạn). Áp dụng nhật ký khai thác, truy xuất nguồn gốc điện tử trong khai thác, bảo quản và sản xuất cá...