| Hotline: 0983.970.780

Nghiên cứu khả năng kháng nấm của dịch chiết lá trầu

Thứ Hai 04/08/2008 , 07:45 (GMT+7)

Saprolegnia, Achlya, và Aphanomyces là những loại nấm gây bệnh phổ biến trên cá nước ngọt, đặc biệt là các loại cá nuôi. Xanh malachite là loại hoá chất đặc hiệu trong việc ức chế sự phát triển của bào tử động và hệ sợi nấm ngay ở nồng độ thấp.

Tuy nhiên, xanh malachite là một chất gây độc và có thể gây ung thư. Việc sử dụng các loại thảo dược có hoạt tính kháng nấm có thể giảm những tác hại này. Chiết xuất lá trầu sau khi đã được pha loãng với nước cất hoặc ethanol được sử dụng như một hợp chất kháng nấm trong nghiên cứu này.

Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học thuộc Bộ môn Ngư Y- Khoa Thủy sản, Đại học Nông Lâm Huế và Bộ môn Bệnh cá- Trường Đại học Nippon, Tokyo, Nhật Bản cho thấy, 2.500ppm là nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) của dịch chiết lá trầu với dung môi là nước cất hoặc ethanol lên tất cả các loài nấm thuộc họ Saprolegniaceae và Achlya sp NJM 0323; trong khi đó với nồng độ 1.250ppm có khả năng ức chế nấm Aphanomyces piscicida NJM 0002.

Ở cả hai loại dung môi: nước cất và ethanol, dịch chiết lá trầu ở nồng độ 10.000ppm có thể diệt tất cả các loài nấm thí nghiệm. Trong một thí nghiệm khác, chỉ với nồng độ 1.250ppm có thể diệt được nấm Aphanomyces piscicida NJM 0002. Kết quả của nghiên cứu này chỉ ra rằng dịch chiết lá trầu có khả năng kháng nấm.

Tuy nhiên nghiên cứu mới được triển khai ở phòng thí nghiệm, cần thử nghiệm dùng dịch chiết lá trầu trong điều trị bệnh nấm trên cá nước ngọt.

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm