Sáng tạo trong chuyện làm ăn
Xã Châu Lăng, huyện Tri Tôn là một trong những xã có đông đồng bào dân tộc thiểu số Khmer sinh sống trên địa bàn huyện Tri Tôn. Những năm qua, từ nguồn vốn Chương trình 135 và nhiều nguồn vốn xã hội hóa, hàng trăm hộ Khmer của xã đã được hỗ trợ phát triển các mô hình sản xuất mới như trồng nấm rơm trong nhà, nuôi lươn, nuôi bò, kỹ thuật trồng rau màu an toàn...
Nhờ vậy, thu nhập của các hộ gia đình tham gia dự án hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo tăng từ 20-25%/năm. Bình quân mỗi năm, có ít nhất 15% số hộ gia đình trong xã Châu Lăng thoát nghèo.
Ông Chau Dol, nông dân Khmer ở ấp Rò Leng ngoài 7 công đất vườn chuyên canh những loại cây ăn trái lâu năm như xoài, dừa, vú sữa, mít… ông Chau Dol còn trồng 2 công hoa màu và kết hợp làm chuồng nuôi dê. Ông Chau Dol phấn khởi nói: “Từ phân dê, tôi ủ thành phân hữu cơ để bón cho hoa màu rồi lại dùng thân cây màu như bắp, đậu phộng, cải xanh… kết hợp với nguồn cỏ có sẵn làm thức ăn cho dê. Cứ sau mỗi đợt xuất chuồng dê thịt, tôi lại tiếp tục giữ dê giống để lai tạo đàn dê con nuôi tiếp tục. Nhờ vậy, tôi có nguồn thu nhập quanh năm”.
Đối với ông Chau Sóc, nông dân Khmer ở xã An Tức (Tri Tôn), chuyên sống bằng nghề nuôi vỗ béo bò để bán cho thương lái phục vụ thị trường bò thịt. Ông Chau Sóc cho biết, xuất thân cũng từ gia đình nghèo khó nhưng nhờ xây dựng mô hình trang trại bò vỗ béo, ông Chau Sóc nhanh chóng vươn lên phát triển kinh tế. Từ việc thu mua bò con, bò lứa ở vùng Bảy Núi và bò ốm nhập về từ Campuchia để nuôi vỗ béo, bán bò thịt, trang trại của ông Chau Sóc mang về doanh thu hơn 1 tỷ đồng/năm.
Đặc biệt hiện nay, ngoài chuyện nuôi bò vỗ béo ra gia đình ông còn có trại bò hàng chục con đang cho lai tạo các giống bò to con, cho tỷ lệ xẻ thịt cao để phù hợp với khuynh hướng của thị trường. Kỳ vọng cuối năm nay gia đình sẽ có nguồn thu nhập khá nhờ xuất bán đợt bò thịt giống mới này.
Lâu nay, đồng bào Khmer Bảy Núi đã quen với truyền thống người đàn ông làm công việc đồng áng, còn phụ nữ lo việc cơm nước, con cái, chuyện lặt vặt trong nhà. Tuy nhiên, với bản tính siêng năng, chịu khó, ham học hỏi, phụ nữ Khmer nếu chịu làm ăn cũng không thua kém gì đàn ông. Chị Néang Kanh Nha, (ở ấp Sà Lôn, xã Lương Phi) và chị Néang Va Ny (ấp Phước Bình, Ô Lâm) là những “nữ tướng” nông dân đáng nể. Ngoài tích cóp được vài chục công đất, các chị còn kết hợp trồng lúa với mua bán, chăn nuôi heo, các hoạt động dịch vụ khác... tạo thu nhập vài trăm triệu đồng mỗi năm cho gia đình.
Ông Trần Nam Dương, Chủ tịch Hội Nông dân huyện Tri Tôn, cho biết: Thực tế, có nhiều phụ nữ Khmer hiện nay trong huyện đang vươn lên trở thành trụ cột trong gia đình. Các chị đã biết tận dụng đất trống quanh nhà để trồng rau sạch, nuôi bò, nuôi heo... tăng thu nhập cho gia đình.
Còn nói về canh tác nông nghiệp, nếu như trước đây, đồng bào Khmer Bảy Núi chủ yếu canh tác lúa theo phương pháp truyền thống, sử dụng lao động thủ công là chính thì hiện nay, việc ứng dụng khoa học kỹ thuật đã được đồng bào chú trọng. Ở huyện Tri Tôn, có những nông dân như Chau Sóc (ấp Ninh Lợi, xã Lương Phi), Chau Đon Sa Rinh (ấp Sóc Tức, xã Lê Trì), Xonh Phi Rôm (khóm VI, thị trấn Tri Tôn), Chau Sóc Rây (ấp Phnôm Pi, xã Châu Lăng), ông Chau Sươn (ấp Tô Hạ, xã Núi Tô)... dù chỉ sở hữu từ 2 - 5 ha đất nhưng nhờ chịu khó học hỏi tiến bộ khoa học kỹ thuật, làm lúa kết hợp mua bán, chăn nuôi, thực hiện dịch vụ nông nghiệp khác... đã mang về nguồn thu nhập hàng năm từ 250 – 700 triệu đồng. Cái hay của đồng bào dân tộc Khmer là tính cần cù trong làm ăn, có ý chí, nghị lực vươn lên từ nghèo khó và không ngừng học hỏi, nắm bắt thị trường, ứng dụng kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất để làm giàu cho gia đình và xã hội.
Đưa điện về vùng cao
Xã Ô Lâm, là xã có đông đồng bào dân tộc thiểu số Khmer nhất huyện Tri Tôn (chiếm khoảng 99% dân số là người Khmer), cũng là địa phương có tỷ lệ hộ nghèo khá cao. Chị Bồ Kim My, cán bộ khuyến nông xã Ô Lâm, cho biết, tính đến nay cả xã còn khoảng vài chục hộ chưa có điện lưới sử dụng. Thời gian qua, các hộ Khmer nơi đây được hỗ trợ lắp đặt điện mặt trời từ dự án “Tăng cường tiếp cận năng lượng cho người nghèo ở các tỉnh ĐBSCL của Việt Nam thông qua ứng dụng các giải pháp năng lượng xanh và bền vững”, do Ban Quản lý Dự án (BQLDA) phát triển năng lượng bền vững (Sở NN-PTNT An Giang) phối hợp Trung tâm Phát triển Sáng tạo Xanh (GreenID, thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam) triển khai tại An Giang.
Ông Trương Kiến Thọ, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT An Giang cho biết: Từ dự án “Tăng cường tiếp cận năng lượng cho người nghèo ở các tỉnh ĐBSCL của Việt Nam thông qua ứng dụng các giải pháp năng lượng xanh và bền vững”, do BQLDA phát triển năng lượng bền vững tỉnh phối hợp với GreenID triển khai giai đoạn 1 tại An Giang, rất nhiều hộ Khmer được hưởng lợi. Dự án đã hỗ trợ lắp đặt trên 1.100 hệ thống pin năng lượng mặt trời độc lập cho các hộ nghèo, cận nghèo, hộ khó khăn ở vùng chưa có điện lưới tại 2 huyện Tri Tôn và Tịnh Biên. Hệ thống pin được lắp đặt theo hình thức dự án hỗ trợ và đối ứng của hộ dân, giúp các hộ có điện phục vụ sinh hoạt cơ bản (thắp sáng đèn, sử dụng quạt máy).
Từ những kết quả bước đầu này, Ban Quản lý Dự án phát triển năng lượng bền vững tỉnh và GreenID mở rộng dự án giai đoạn 2 (2019-2022) với tên gọi mới là “Giải pháp xanh hỗ trợ tiếp cận năng lượng cho cộng đồng nghèo khu vực ĐBSCL tại tỉnh An Giang”. Cách đây không lâu Ban Quản lý Dự án tỉnh, GreenID và Công ty TNHH Ý Thức Khí Hậu (Climate Sense) đã tổ chức lễ khánh thành mô hình thử nghiệm kết hợp sản xuất nông nghiệp và điện mặt trời tại hộ gia đình ông Chau Hon (ấp An Hòa, xã Châu Lăng, Tri Tôn). Với công suất 45kWp trên diện tích 400m2, có thể nói đây là mô hình kết hợp nông nghiệp, điện mặt trời đầu tiên có sự hợp tác 3 bên giữa người dân, doanh nghiệp và tổ chức phi lợi nhuận thực hiện tại An Giang. Kết quả thử nghiệm khả quan trên cây dưa leo đã chứng minh cho tính phù hợp, tính khả thi trên thực tiễn để có thể nhân rộng mô hình này.
Ông Thọ cho biết thêm, điều kiện của An Giang là 1 tỉnh nông nghiệp có nhiều tiềm năng, lợi thế phát triển điện năng lượng mặt trời nhờ vào cường độ bức xạ mặt trời khá cao (từ 4,7-5,1kWh/m2/ngày), số giờ nắng trong năm hơn 2.400 giờ. “Việc kết hợp mô hình sản xuất nông nghiệp – điện mặt trời là hướng đi thích hợp, vừa khai thác hợp lý lợi thế tự nhiên, vừa đồng thời tăng thu nhập cho nông dân, tăng hiệu quả sản xuất trên diện tích canh tác, hướng đến phát triển sản xuất nông nghiệp xanh, thích ứng biến đổi khí hậu.
Với hệ thống điện mặt trời có công suất 45kWp, lắp đặt trên diện tích 400m2, bình quân mỗi ngày, sản xuất được 103kWh điện để phục vụ lại sinh hoạt cho gia đình và có nguồn điện bơm tưới trong sản xuất nông nghiệp. Nhờ các tấm quang năng được thiết kế với độ giãn cách phù hợp, ông Chau Hon trồng dưa leo bên dưới với thiết kế nhà màng. Dưa leo sử dụng rất ít phân, thuốc nhưng trái đẹp, tỷ lệ đậu cao hơn ruộng đối chứng bên ngoài.