Nuôi con ăn tre
Với trang trại 2.000 m2 nuôi gần 2.000 con dúi mốc đại, mỗi năm anh Nguyễn Văn Diện ở xã Ninh Sở, huyện Thường Tín (Hà Nội) có thu nhập khá cao và ổn định.
Dúi mốc đại hay con gọi là chuột nứa, chuột tre thường đào hang sống trong rừng, thức ăn chính của chúng là tre và nứa. Chính vì vậy, dúi mốc đại được xem là đặc sản của núi rừng, với chất lượng thịt thơm ngon. Hiện nay trên thị trường, mỗi 1 kg thịt dúi có giá bán hơn 600 nghìn đồng, mỗi cặp dúi giống có giá vài triệu đồng.
Dẫn chúng tôi đi thăm trang trại, anh Diện cho biết, trước khi đến với mô hình nuôi dúi mốc đại, anh đã có thời gian làm nghề xây dựng, tuy nhiên thu nhập không cao, công việc bấp bênh, thường xuyên đi xa.
Được người quen giới thiệu mô hình nuôi con dúi mốc đại, anh Diện thấy đây là loài có nhiều đặc điểm phù hợp với điều kiện chăn nuôi của gia đình. Từ đó, anh đầu tư chăn nuôi và mở rộng trại dần, đến nay anh có được nguồn thu nhập cao từ con dúi.
Chia sẻ về môi trường thích hợp chăn nuôi dúi mốc đại, anh Diện cho biết: Điều kiện nhiệt độ môi trường chăn nuôi dúi lý tưởng dao động từ 21 – 28 độ C, giới hạn chịu đựng từ 10 – 35 độ C. Khi vào mùa đông, anh thường chọn tấm gỗ mỏng che lên miệng lồng tránh gió, còn mùa hè thường phun nước lên mái chuồng kết hợp bật quạt khi nhiệt độ trong chuồng nuôi trên 35 độ C.
Về cách làm chuồng nuôi, anh Diện chia sẻ: Con dúi mốc đại hiền lành, sống được bầy đàn nên nuôi được nhiều con trong một ô kích thước 50x50 cm gạch men ghép thành ô 1 m2, vì vậy không tốn nhiều diện tích, cũng như không tốn vật liệu làm chuồng nuôi.
Với những ô chuồng nuôi sinh sản, anh Diện ghép ô 50x50 cm tại khu vực riêng, yên tĩnh. Thời gian mang thai của dúi mốc đại là 45 ngày. Sau khi đẻ, dúi con được 45 ngày sẽ tách mẹ.
Một năm, dúi mốc đại sinh sản 3 lứa, mỗi lứa từ 3 – 6 con. Từ lúc đẻ ra đến khi dúi cái động đực lần đầu khoảng 6 - 7 tháng. Dúi cái động dục có biểu hiện ăn ít, sục sạo tìm đực, bộ phận sinh dục có màu hồng.
Khi bắt dúi cái bỏ sang ô dúi đực, dúi cái phát ra tiếng gọi đực đặc trưng. Dúi cái động dục thường chủ động tiến lên phía trước mặt dúi đực để được giao phối, đây là đặc điểm dễ nhận biết nhất đối với người mới chăn nuôi dúi lần đầu.
Dễ nuôi, nhưng cần đảm bảo kỹ thuật
Dúi là loài vật có sức đề kháng rất cao, rất ít bệnh tật, hiện nay chưa xảy ra dịch bệnh nào lây lan như các vật thông thương trâu bò lợn gà.
Theo anh Diện, để chăn nuôi dúi mốc đại đạt hiệu quả kinh tế, người nuôi cần phòng bệnh hơn chữa bệnh. Cụ thể về thức ăn như: Mía cần cạo sạch vỏ trước khi cho ăn; không nên chặt tre vào lúc trời mưa, bởi khi đó sẽ dính nước mưa có axit, trường hợp cần gấp thì sau khi chặt cần rửa sạch và phơi khô mới cho dúi ăn.
Người chăn nuôi tuyệt đối không cho dúi ăn các loại thức ăn bị nhiễm bệnh, bị nấm mốc, ôi thiu. Các thức ăn như ngô, khoai, sắn cần đảm bảo xuất xứ nguồn gốc để yên tâm về chất lượng. Đặc biệt lưu ý với thức ăn thừa của dúi, không được để lưu cữu lên men, dúi ăn vào sẽ dễ bị tiêu hoá.
Bên cạnh đó, dúi mốc đại còn ăn được cả cơm nên anh Diện thường trộm cơm với bột ngô cho dúi ăn. Công thức phối trộn 50% cơm nguội, 50% bột ngô.
Theo anh Diện, với nguồn thức ăn rất sẵn có và rẻ tiền, bao gồm tre, mía, ngô, khoai, sắn…, chi phí thức ăn cho dúi trung bình chỉ dao động từ 200 – 400 đồng/con/ngày tuỳ theo dúi nuôi lấy giống hay nuôi thương phẩm. Mỗi ngày anh Diện chỉ cần dành 1 – 2 tiếng buổi chiều cho dúi ăn và chăm sóc vệ sinh chuồng trại.
Về kỹ thuật nuôi dúi, anh Diện chia sẻ: “Môi trường chăn nuôi cần thông thoáng, sạch sẽ, đảm bảo điều kiện nhiệt độ môi trường chăn nuôi ổn định. Để biết chính xác nhiệt độ trong chuồng nuôi, bà con nên lắp nhiệt kế để biết chủ động điều chỉnh nhiệt độ môi trường thích hợp nhất cho đàn dúi”.
Với kinh nghiệm nhiều năm chăn nuôi dúi, anh Diện đánh giá, mô hình chăn nuôi dúi mang lại thu nhập ổn định, lâu dài, đầu ra sản phẩm luôn ở mức cao.
Tuy nhiên anh cũng lưu ý bà con việc lựa chọn mua con giống tại các trang trại có uy tín (anh luôn đồng hành cùng bà con), sẵn sàng có phương án bao tiêu đầu ra của sản phẩm, không mua bán trôi nổi trên các trang mạng xã hội. Chỉ có như vậy người nuôi mới giảm bớt rủi ro khi chăn nuôi dúi.