| Hotline: 0983.970.780

Nuôi vịt biển ứng phó với biến đổi khí hậu

Thứ Sáu 10/11/2017 , 14:05 (GMT+7)

Gần đây, biến đổi khí hậu gây nhiều thách thức cho người dân và sản xuất nông nghiệp. Việc triển khai mô hình nuôi vịt biển đang được xem là xu hướng mới nhằm đa dạng hóa vật nuôi, thích ứng với biến đổi khí hậu, cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập…

Nghiên cứu giống mới chuyển giao

Theo Cục Chăn nuôi, Việt Nam có đàn thủy cầm đứng thứ hai thế giới sau Trung Quốc. Thủy cầm là con vật dễ nuôi, có khả năng tận dụng các phế phẩm nông lâm nghiệp, côn trùng, thủy sinh làm thức ăn.

12-30-39_2
Các mô hình chăn nuôi vịt biển đang nhân rộng tại vùng ĐBSCL

Thời gian qua, chăn nuôi thủy cầm đã có những bước phát triển nhảy vọt từ chăn nuôi phân tán, quy mô nhỏ, tự phát, dần chuyển thành chăn nuôi tập trung quy mô lớn. Năng suất và chất lượng sản phẩm ngày càng tăng, lợi nhuận cao, khiến nuôi thủy cầm nhiều địa phương đã trở thành nghề chính.

Hàng năm số đầu vịt tăng bình quân gần 7%, sản lượng thịt vịt, ngan hơi đạt trên 200 ngàn tấn/năm, trứng đạt gần 2 tỷ quả. Việt Nam đang có bộ giống thủy cầm rất phong phú, đa dạng, làm chủ được công nghệ SX con giống thủy cầm bố mẹ với năng suất và chất lượng cao. Các giống vịt siêu thịt, siêu trứng cao nhất thế giới đều được nhập về, đưa vào SX rất hiệu quả.

Theo Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển chăn nuôi gia cầm VIGOVA, giống vịt biển có một số ưu điểm như dễ nuôi, nuôi được ở nước mặn, nước lợ và nhiễm phèn. Tuy nhiên, với mỗi nguồn nước có độ mặn khác nhau thì đều có quy trình nuôi phù hợp.

Giống vịt này năng suất thịt và trứng khá trong nhóm vịt chuyên dụng, cụ thể năng suất trứng đạt từ 235 - 245 quả/mái/năm; vịt thương phẩm nuôi khoảng 9 tuần sẽ đạt được 2,7 đến 2,8 kg, tùy theo điều kiện chăn nuôi. Thực tế ở vùng ĐBSCL, vịt nuôi 70 ngày đã đạt được 2,8 kg cho hiệu quả kinh tế cao.

Ông Dương Xuân Tuyển, GĐ Trung tâm Vigova cho biết: “Trong mấy năm qua, Trung tâm được Bộ NN-PTNT giao nuôi giữ đàn giống gốc chọn lọc nhân thuần. Đến nay chúng tôi đã có được một số giống vịt thuần để nhân nhanh số lượng giống cung cấp cho các tỉnh Nam bộ”.

TS Hạ Thúy Hạnh, PGĐ Trung tâm Khuyến nông Quốc gia: “Theo TTKN các tỉnh, hiệu quả nuôi vịt biển khá cao, thích ứng tốt với biến đổi khí hậu. Tiềm năng nuôi vịt biển ở ĐBSCL lớn, vịt biển nhiều ưu điểm so với vịt đồng, đầu ra cũng khả thi. VIGOVA cần nghiên cứu sâu hơn để cho ra giống vịt thích ứng với nhiều vùng miền khí khậu khắc nghiệt, chuyển giao về các tỉnh”.

Theo ông Tuyển, hiện trung tâm đang chọn lọc, nhân thuần và lai chéo các dòng thuần để có giống vịt bố mẹ và vịt thương phẩm cung cấp cho sản xuất. Mỗi năm Vigova đang cung cấp hàng trăm ngàn con giống cho các tỉnh Nam bộ. Ngoài ra, VIGOVA còn nghiên cứu được một số giống vịt khác như vịt siêu thịt, siêu nạc, siêu trứng.
 

Liên kết phát triển chăn nuôi

Đến cuối năm 2016, tổng đàn vịt khoảng 71,28 triệu con, tập trung nhiều nhất ở vùng ĐBSCL, với tỉ lệ 37,03%, tiếp đến ĐBSH 25,71%, Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung 23,13%, còn các vùng khác dưới 10%. Đặc biệt, một số nơi và cơ sở chăn nuôi đã liên kết thành lập các THT, HTX… hỗ trợ nhau về vốn, tiêu thụ, hình thành chuỗi và xây dựng thương hiệu vịt biển.

Theo bà Nguyễn Thị Hồng Châu, Trung tâm Khuyến nông (TTKN) Long An, trong 2 năm triển khai dự án nuôi vịt kiêm dụng PT, vịt biển nuôi thịt, Long An đã phát triển được 16.000 con. Năm 2016 đã phân bổ 1.600 vịt PT và 6.400 con vịt biển cho các huyện Tân Trụ, Cần Đước. Năm 2017, đã có 8.000 con vịt biển phân cho các xã Tân Phước Tây (Tân Trụ), xã Thạnh Vĩnh Đông (Châu Thành), mỗi hộ 800 con. Các hộ được hỗ trợ 100% con giống 1 ngày tuổi và vật tư, thức ăn (30%), được tập huấn kỹ thuật nuôi vịt biển.

Kết quả đánh giá cho thấy, vịt thích nghi tốt với điều kiện chăn nuôi của địa phương, tỉ lệ nuôi sống trên 95%. So với các giống vịt địa phương thì vịt biển có sức kháng bệnh tốt, ít xảy ra bệnh. Tất cả các hộ chăn nuôi vịt biển đều có lãi, nuôi 70 ngày lãi gần 14 triệu đồng/800 con, đây là mức thu nhập khá với nông dân.

12-30-39_4
Các mô hình chăn nuôi vịt biển đang nhân rộng tại vùng ĐBSCL

Tương tự, ông Lưu Thành Long, TTKN Sóc Trăng cho biết, năm qua nhiều hộ chăn nuôi ở Sóc Trăng nuôi vịt biển đều có lời. Thực tế cho thấy giống vịt này dễ nuôi, thích nghi với môi trường phèn mặn, khả năng sinh trưởng nhanh.

TS.Nguyễn Giang Thu, Phó Vụ trưởng vụ KH, CN- MT cũng cho rằng, giống vịt biển đang bắt đầu triển khai nuôi ở ĐBSCL, là mô hình phát triển đúng hướng. Còn ông Nguyễn Văn Trọng, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi nhấn mạnh, khu vực ĐBSCL có nhiều lợi thế nuôi vịt, đặc biệt là nuôi vịt chạy đồng, chiếm 37% tổng số đầu vịt; chiếm 39% tổng sản lượng trứng. Đây cũng là khu vực có đàn vịt lớn và gần đầu mối tiêu thụ thịt vịt là TP.HCM.

Theo ông Trọng, VIGOVA cần tiếp tục nghiên cứu các giống vịt tốt, cao sản phục vụ phát triển chăn nuôi và biến đổi khí hậu, chuyển giao cho các địa phương nuôi. Theo định hướng đến năm 2020 sẽ phát triển lên 100 triệu con vịt, trong đó khoảng 40 triệu vịt chuyên trứng.

“Hiện các tỉnh đang tiếp cận và nhân rộng giống vịt biển này, nhất là trong điều kiện biến đổi khí hậu. Đặc biệt với 8 tỉnh ven biển khi triển khai mô hình nuôi vịt biển sẽ mang lại hiệu quả cao. Tuy nhiên, Viện Chăn nuôi cũng cần xây dựng những gói kỹ thuật phục vụ ngành chăn nuôi, đặc biệt với vùng xâm nhập mặn”, ông Nguyễn Văn Trọng, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi.

 

Xem thêm
Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cao điểm phòng trừ sâu cuốn lá nhỏ hại lúa xuân vào dịp nghỉ lễ 30/4

Theo Trung tâm BVTV phía Bắc, thời điểm phòng trừ tập trung sâu cuốn lá nhỏ từ 25/4 - 5/5. Sau khi phun lần 1, nếu mật độ còn cao tổ chức phun trừ lần 2.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm