| Hotline: 0983.970.780

SẢN XUẤT GẠO Ở ĐBSCL- TỪ TRƯỚC MẮT ĐẾN LÂU DÀI

Thứ Sáu 25/11/2011 , 10:54 (GMT+7)

Vụ thu đông thắng lớn

Do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, hầu như các nước sản xuất lúa ở vùng Đông Nam Á đều gặp thiên tai, mất mùa. Đặc biệt là trận lũ tồi tệ nhất trong lịch sử 50 năm của Thái Lan, nước xuất khẩu gạo lớn nhất trên thế giới với khoảng 10 triệu tấn mỗi năm bị giảm sản lượng xuất khẩu 3 – 4 triệu tấn. Điều này làm cho giá lúa tăng mạnh trong vụ thu đông lên 7.300 – 7.500 đồng/kg, vốn là thời điểm giá lúa cao nhất trong năm.

 Việt Nam cũng xảy ra lũ lụt ở ĐBSCL, với một số nơi mực nước đã vượt đỉnh lũ năm 2000, tuy nhiên do các địa phương đã tập trung chỉ đạo quyết liệt và huy động nguồn lực vào công tác phòng chống nên chỉ bị thiệt hại 8 ngàn ha trong tổng số 644 ngàn ha. Đây có thể xem là thắng lợi lớn của nông dân trồng lúa. Theo ước tính sản lượng lúa gạo của ĐBSCL năm 2011 là 23.176 ngàn tấn, tăng hơn 1,6 triệu tấn so với năm 2010, hoàn thành xuất sắc kế hoạch tăng 1 triệu tấn mà Chính phủ đã giao cho Bộ NN-PTNT.

Lúa gạo vẫn là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta. Tính từ đầu năm đến nay, cả nước đã xuất được trên 6 triệu tấn gạo, thu về 2,9 tỉ USD.

Chuẩn bị cho vụ đông xuân

Theo PGS.TS Phạm Văn Dư, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt, ở những địa phương nước lũ đã rút hết, bà con nên nhanh chóng xuống giống gấp rút cho kịp lịch thời vụ, từ ngày 5 – 30/11, còn với những nơi vẫn còn nước thì có thể chuẩn bị bơm tát để xuống giống đợt sau, từ ngày 5 – 30/12, bà con nông dân nên thực hiện theo lịch này, không được để quá trễ sẽ ảnh hưởng đến vụ hè thu năm sau.

Qua thống kê của các năm cho thấy xuống giống tốt đợt tháng 11 đều cho năng suất rất cao và được giá. Theo tính toán sẽ có 600 – 700 ngàn ha xuống giống đợt 1 và 600 ngàn ha xuống giống đợt 2, tổng diện tích vụ đông xuân ở ĐBSCL là 1,3 – 1,4 triệu ha.

Biến đổi khí hậu đang xảy ra với nhiều biểu hiện dễ dàng nhận ra như lũ lụt, hạn hán, ngập mặn, mưa bão nên sản xuất lúa đang phải đối diện với nhiều rủi ro. Đối với vùng điều kiện thuận lợi, trồng thâm canh 3 vụ người nông dân cần phải chọn loại giống năng suất cao, chống chịu tốt đặc biệt là với rầy nâu, vàng lùn. Ngoài ra, giống ngắn ngày, 85 – 90 ngày, cũng là yêu cầu cần thiết để giảm thời gian đứng trên đồng của cây lúa nhờ đó giảm thiểu rủi ro do các yếu tố thời tiết không thuận lợi mang đến.

Tuy nhiên với các vùng ven biển như Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Trà Vinh việc chọn giống lúa có khả năng chịu mặn là ưu tiên hàng đầu. Hiện nay một số giống do Viện Lúa ĐBSCL phát triển có thể chịu được mặn 4 – 5‰ như OM5451, OM5464, OM6162… và Viện cũng đang nghiên cứu các giống có thể chịu được 5 – 7‰ để đảm bảo năng suất cho những địa phương bị mặn xâm nhập nặng. Do điều kiện không được thuận lợi nên các vùng này chỉ trồng lúa dài ngày và trồng 2 vụ/năm hoặc luân canh lúa tôm, lúa mùa.

Thương hiệu cho gạo Việt

Trên thế giới có rất nhiều nước đã tạo nên được thương hiệu nổi tiếng khắp nơi như Thái Lan có Khaw Dawk Mali, Hom Mali, Jasmine 85; Ấn Độ và Pakistan có gạo Basmati; Ý có gạo Arborio, Úc có Amaroo. Là nước xuất khẩu gạo thứ hai nhưng hiện nay Việt Nam vẫn chưa có bất kỳ thương hiệu gạo nào trên thị trường quốc tế. Con đường đi tìm thương hiệu cho gạo Việt đã được nghiên cứu và hoạch định từ lâu nhưng đến nay vẫn chưa thực hiện được.

 Do không có thương hiệu nên giá gạo cùng chất lượng của Việt Nam so với Thái Lan hiện chênh lệch 50 – 70 USD/tấn, theo tính toán thì giá gạo Việt Nam có thể tăng thêm 30 – 40 USD/tấn khi có thương hiệu.

Nổi bật về sản lượng và chất lượng gạo có thể kể đến gạo thơm Sóc Trăng, hiện được biết đến rất nhiều và là sự lựa chọn hàng đầu cho các vùng ven biển. Theo kỹ sư Hồ Quang Cua, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Sóc Trăng đồng thời là tác giả của giống lúa ST, do tính trạng thơm và tính trạng chịu mặn có quan hệ với nhau nên vô hình chung khi lai tạo đã tạo ra giống lúa vừa phát triển tốt ở những nơi bị ảnh hưởng mặn đồng thời có phẩm chất cao.

 Trong hội thi Gạo thơm thương hiệu Việt vừa qua, gạo ST20 đã vinh dự đạt giải nhất. Hiện Cục Sở hữu trí tuệ đã cấp chứng nhận cho gạo thơm Sóc Trăng và có 5 doanh nghiệp ở Sóc Trăng và 1 doanh ngiệp ở Cần Thơ đã được sử dụng thương hiệu này cho sản phẩm của mình.

Theo TS. Lê Văn Bảnh, Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, một trong những nguyên nhân chủ quan mà gạo nước ta chưa có được thương hiệu là do tổ chức sản xuất chưa tốt. Diện tích lúa trồng của mỗi hộ hiện không cao, thường là dưới 1 ha và việc sử dụng giống theo sở thích của người nông dân. Dẫn đến việc khi doanh nghiệp đi thu mua lúa sẽ phải mua nhiều loại gạo về trộn lại và chỉ có thể xuất khẩu dưới đang gạo trắng.

 Để giải quyết vấn đề này, người nông dân phải kết hợp lại xây dựng mô hình “nông hộ nhỏ, cánh đồng lớn”. Nhiều hộ sẽ tập trung sản xuất trên diện tích lớn, sử dụng một số loại giống nhất định, cơ giới hóa đồng loạt cũng như phân bón, thuốc BVTV theo các tiêu chuẩn như GlobalGap, VietGap. Đã đến lúc Việt Nam cần nhanh chóng phát triển thương hiệu gạo đặc trưng để tăng giá trị hạt gạo.

Chắc chúng ta vẫn còn nhớ những bài học đắt giá với thương hiệu như Vinataba bị doanh nghiệp Indonesia đăng ký hay cà phê Buôn Ma Thuộc vào tay Trung Quốc. Hi vọng gạo thương hiệu Việt sẽ xuất hiện trên thị trường thương mại quốc tế vào một ngày không xa.

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm