| Hotline: 0983.970.780

Sinh sản thành công cá tra nghệ

Thứ Năm 05/01/2012 , 10:28 (GMT+7)

Hình dạng miệng, cấu tạo răng, ruột, dạ dày... cho thấy cá tra nghệ thích nghi tốt ở tầng giữa và tầng đáy, có tập tính ăn tạp thiên về động vật...

Cá tra nghệ 6 ngày tuổi
Đây là đề tài nghiên cứu khoa học do ThS Vương Học Vinh (Trưởng bộ môn Thủy sản – Khoa Nông nghiệp - Tài nguyên thiên nhiên – Đại học An Giang) và nhóm cộng sự thực hiện.

Bước đầu cho thấy rất lạc quan, khả năng mở ra triển vọng mới đối với loài cá da trơn này. Theo hệ thống phân loại cá ở ĐBSCL, trong họ Schilbeidae (cá tra) với 11 loài được xác định, giống cá tra Pangasius có 9 loài với 5 loài có giá trị kinh tế. Năm 2000, hai nhà khoa học Pouyaud và Teugel xác định thêm 3 loài mới, thuộc họ Pangasius, trong đó có loài Pangasius kunyit. Như vậy, cá tra nghệ (Pangasius kunyit) là loài mới và chưa được nghiên cứu trong hệ thống phân loại này.

Ở An Giang, cá bông lau nghệ là loài đặc sản, thịt ngon, giá cao và năm 2001, đối tượng này đã được sinh sản nhân tạo thành công. Song, những nghiên cứu về đặc điểm sinh học (hình thái, dinh dưỡng, sinh trưởng và sinh sản) của nó còn hạn chế. Vì thế, đề tài “Nghiên cứu ứng dụng hoàn chỉnh quy trình sinh sản nhân tạo và sản xuất giống cá tra nghệ (Pangasius kunyit)” được thực hiện, sẽ góp phần xây dựng cơ sở khoa học cho việc đa dạng hóa các loài nuôi và gia tăng sản lượng thủy sản.

Từ tháng 9 năm 2010 đến tháng 7 năm 2011, nhóm thực hiện đề tài đã tiến hành khảo sát một số hình thái của cá tra nghệ (Pangasius kunyit): 2 đặc điểm bên ngoài có thể phân biệt với cá da trơn khác là trên hai nắp mang cá có vết hình rẻ quạt và vi lưng cá có tia vi cứng luôn dựng thẳng đứng, không nằm sát xuống mặt lưng ngay cả khi dùng tay áp sát vào. Còn bên trong, hình dạng miệng, cấu tạo răng, ruột, dạ dày... cho thấy cá tra nghệ thích nghi tốt ở tầng giữa và tầng đáy, có tập tính ăn tạp thiên về động vật. Qua nghiên cứu sự biến đổi hình thể của bong bóng khí, bước đầu có thể kết luận cá tra nghệ là một loài cá rộng muối. Mặc dù, da và vi cá có màu vàng, nhưng thịt cá lại trắng.

Ở quy trình sinh sản nhân tạo, thực hiện 4 đợt trên 40 con cá bố mẹ: khối lượng cá tham gia sinh sản (kg) 2,52 ± 0,56; hệ số thành thục cá cái (%) 8,39 ± 3,686; tỉ lệ thụ tinh (%) 89,64 ± 17,75; tỉ lệ nở (%) 68,10 ± 20,13. Nghiên cứu ương cá bột lên giống, tỉ lệ sống cá ở 30 ngày tuổi (%), ương trong bồn composit là 54,7 ± 21,9. Trong nội dung này, đề tài thực hiện một chuyên đề “Ảnh hưởng của các loại thức ăn khác nhau lên tốc độ tăng trưởng và tỉ lệ sống cá tra nghệ ương từ bột đến 30 ngày tuổi”, kết quả ở 4 nghiệm thức, tỉ lệ sống trung bình thấp nhất 30,2% (cho ăn bột đậu nành, lòng đỏ trứng vịt) và cao nhất 85,5% (cho ăn moina).

Với thử nghiệm khả năng thích nghi nồng độ muối ở 0‰, 3‰, 6‰, 9‰ và 12‰ của cá tra nghệ giống. Đề tài đã hoàn thành nghiên cứu ở giai đoạn 1 (ương cá bột từ 1 đến 30 ngày tuổi): thí nghiệm được bố trí trong bồn composite có dung tích 0,5m3, mật độ 300 cá bột/bồn (số lần lập lại r = 3; số nghiệm thức t = 3 (0‰, 3‰, 6‰). Giai đoạn 2 (ương cá bột từ 30 đến 60 ngày tuổi): thí nghiệm được bố trí trong bồn composite có dung tích 0,5 m3, mật độ 100 cá hương/bồn (số lần lập lại r = 3; số nghiệm thức t = 5 (0‰, 3‰, 6‰, 9‰ và 12‰). Tỉ lệ sống cá giống đến 30 ngày tuổi (0‰ - 6‰ là 29,56 ± 8,6 - 69,94 ± 7,55) và 60 ngày tuổi (0‰ - 12‰ là 60,33 ± 20,71 - 94,33 ± 4,93). Thử nghiệm này, đề tài còn nghiên cứu thêm phần nâng dần độ mặn trong quá trình ương nuôi (2 ngày nâng 1‰), cho thấy cá tra nghệ thích nghi (cá ăn thức ăn và phát triển bình thường) đến độ mặn 27‰.

Đề tài “Nghiên cứu ứng dụng hoàn chỉnh quy trình sinh sản nhân tạo và sản xuất giống cá tra nghệ (Pangasius kunyit)” do ThS Vương Học Vinh và nhóm cộng sự đang tiếp tục thực hiện tăng trưởng khối lượng cá trong nghiên cứu, tổng hợp số liệu và phân tích thống kê. Bố trí thử nghiệm thêm về tỉ lệ sống và tăng trưởng cá giai đoạn từ 60 ngày đến 90 ngày tuổi ở 4 nghiệm thức có độ mặn 0‰, 12‰, 20‰, 27‰; đồng thời, khẳng định khả năng phát triển trong điều kiện nước lợ và mặn của cá tra nghệ nước ngọt.

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm