
Những ngôi nhà gỗ nhỏ đơn sơ là nơi ở, sinh hoạt của các hộ dân ở thôn 3 (xã Trà Vinh, huyện Nam Trà My, Quảng Nam). Ảnh: L.K.
Tình người trong khốn khó
Giữa trưa, những đám mây đen bất ngờ kéo đến bao trùm một màu xám xịt trên ngôi làng nhỏ. Mùa này, những cơn mưa núi cứ bất chợt ầm ào kéo đến khiến cho người dân không kịp trở tay. Chị Đinh Thị Lan (32 tuổi) từ trong nhà vội vã chạy ra khiêng mấy nong lúa đang phơi dở trước khi cơn mưa ập đến.
Bao năm nay, cũng như những người dân khác ở thôn 3 (xã Trà Vinh, huyện Nam Trà My, Quảng Nam), cả gia đình chị Lan cũng chỉ trông chờ vào mấy sào lúa rẫy. Thời tiết ngày càng khác thường nên cây lúa rẫy dù sức sống mãnh liệt đến mấy cũng có năm không tránh khỏi mất mùa.
“Ở đây bà con trồng lúa ở bên phía núi xa kia, từ nhà đến ruộng xa nhất có khi mất cả 1 tiếng đi bộ. Trước đây nhờ trời thương, lúa được mùa, đủ ăn cả năm. Nhưng mấy năm qua thì thiên tai liên tục, rồi sạt lở khiến cho nhiều đám ruộng của người dân trong thôn bị vùi lấp, có năm cũng phải sống trong cảnh chạy ăn từng bữa. Cũng may vào thời điểm khó khăn, bà con được hỗ trợ gạo nên đỡ khổ hơn chút”, chị Lan chia sẻ.
Nếu như ở những địa phương vùng núi khác, người dân còn có thể trồng keo, sau vài năm khai thác cũng kiếm được vài chục triệu đồng để trang trải cuộc sống còn ở thôn 3 này thì hầu như không thể. Bởi, xe ô tô không vào được, keo trồng rồi cũng không có cách nào để vận chuyển. Họ đành chấp nhận cuộc sống tự cung tự cấp, có gì dùng nấy.
Bên mái hiên ngôi nhà gỗ, phía trước là vực sâu, già Nguyễn Xuân Bốn (64 tuổi) chậm rãi kể về cuộc sống của bà con trong thôn. Ở vùng đất này xung quanh là núi nên đất canh tác của người dân rất ít. Diện tích vườn nhỏ hẹp nên mỗi nhà cũng chỉ nuôi vài con gà, con vịt, có điều kiện thì nuôi thêm heo, bò. Sản phẩm làm ra chủ yếu phục vụ trong gia đình.
Bữa ăn hàng ngày của người dân thông thường chỉ có cơm rau là chủ đạo. Thỉnh thoảng, họ cũng lên rừng, xuống suối bẫy chim, bắt con cá, con ếch về làm thực phẩm. Đến những ngày lễ Tết hay sự kiện quan trọng của làng, có nhà nào mổ heo, các gia đình lại quây quần, chia sẻ với nhau từng miếng thịt. Dù còn lắm khó khăn nhưng nơi đây tình làng nghĩa xóm luôn ấm áp, đong đầy. Đây là điều mà mỗi lần nhắc đến, ánh mặt già Bốn lại sáng lên niềm tự hào.
“Truyền thống từ bao thế hệ của làng đến nay vẫn vậy, chia sẻ từng miếng cơm, manh áo. Rồi mỗi lần có gia đình nào gặp hoạn nạn thì mọi người đều chung tay giúp đỡ. Hễ có ai đau ốm, nhà không có tiền đi bệnh viện chữa trị hay mua thuốc uống thì vay mượn những gia đình nào có điều kiện hơn. Đến lúc nào có tiền sẽ trả lại. Bởi chúng tôi hiểu rõ, ở nơi này nếu bà con không giúp nhau thì còn ai giúp mình”, già Bốn kể.
Mấy năm nay, nhờ đường sá được cải tạo, cùng với đó, hàng tháng chính quyền xã Trà Vinh cũng tổ chức phiên chợ ở trung tâm nên người dân thôn 3 có điều kiện để mang các sản phẩm dư thừa hoặc các sản vật từ rừng ra bán. Tuy nhiên, giá trị của nông sản cũng không cao nên thu nhập thêm của họ cũng không đáng kể. Có chăng cũng chỉ đủ để mua thêm ít mắm muối dự trữ.
Khổ nhất là vào mùa mưa bão, đường đi lầy lội cùng với nguy cơ sạt lở nên người dân không dám ra ngoài, cả thôn bị cô lập hoàn toàn. Bà con kể rằng, nếu tình trạng mưa lũ kéo dài, lực lượng cứu trợ không tiếp cận được để tiếp tế lương thực, thực phẩm thì nhiều nhà chỉ biết ăn cơm với muối để cầm cự qua ngày. Đời sống vốn đã khó khăn càng thêm phần cơ cực.
Vượt lên nghịch cảnh
Ngoài những vất vả về cuộc sống mưu sinh, người dân ở thôn 3, xã Trà Vinh còn đối mặt với những thiếu thốn trong điều kiện sinh hoạt, không cầu cống, kênh mương thủy lợi, không trạm y tế, không có thông tin liên lạc, chưa có nước sạch, chưa có hệ thống điện lưới quốc gia. Tại đây cũng chỉ có 2 điểm trường tạm bợ để dạy và học cho các em từ mầm non đến lớp 3.

Điều kiện sinh hoạt của người dân còn rất thiếu thốn. Ảnh: L.K.
Đối diện với những thiếu thốn đó rõ ràng không phải là điều dễ dàng gì. Trước thực tế này, người dân nơi đây đã biết tận dụng những lợi thế từ núi rừng, sông suối để phục vụ nhu cầu thường ngày. Để có nước sử dụng, người làng thôn 3 đã dùng hệ thống ống nhựa, dẫn nước từ đầu nguồn con suối cách làng khoảng 5km về đến từng nhà.
Những ngặt nỗi, cứ mỗi lần hạn hạn hay mưa lũ, nước suối không đủ cung cấp hoặc nhiễm bẩn, bà con lại nơm nớp nỗi lo khan hiếm nước sạch để sinh hoạt. Mọi người chỉ biết mong chờ những cơn mưa tới rồi tận dụng hết các dụng cụ trong nhà để trữ nước, chắt chiu từng giọt sử dụng ăn uống. Đó là chưa kể đến việc hệ thống đường ống cũng thường xuyên hư hỏng, tình trạng mất nước cũng xảy ra như cơm bữa.
Mấy năm trước, người dân trong thôn cũng vui hơn khi một số nhà đã có điện thắp sáng. Nguồn điện được tạo ra từ các tua bin nước nhỏ lắp dưới dòng chảy của những con suối. Do công suất nhỏ nên mỗi tua bin như vậy chỉ đủ cung cấp điện cho 1 đến 2 gia đình sử dụng.
Giờ đây, mỗi khi màn đêm buông xuống, hình ảnh cả thôn bị bao trùm bởi một màu đen tăm tối, thi thoảng hiện lên những ánh đèn leo lét trước kia cũng không còn nữa. Nhưng để có được điều này người dân vẫn chấp nhận rủi ro. Bởi, mỗi khi con nước dâng cao, những tua bin nước có thể bị cuốn trôi. Trong khi số tiền hàng triệu đồng bỏ ra mua thiết bị này đối với người dân là con số không hề nhỏ.

Người dân ở thôn 3 chủ yếu vẫn sống cuộc sống tự cung tự cấp. Ảnh: L.K.
Theo ông Trần Văn Thương, Chủ tịch UBND xã Trà Vinh, dù điều kiện sống ở đây không thể bằng những nơi khác nhưng so với nhiều năm trước đã đỡ hơn phần nào. Sau bao nhiêu năm, bà con đã nhìn thấy được ánh điện. Rồi đường sá tuy còn chưa đâu vào đâu nhưng dù sao người trong làng cũng có thể đi lại, giao thương.
Mặc dù vậy, ông Thương cho rằng, để kinh tế của người dân khá lên, điều quan trọng đầu tiên chính là phải hoàn thiện hạ tầng giao thông. Bởi hiện nay, các hộ dân trong thôn đã phát triển được nhiều diện tích cây quế bản địa có giá trị cao. Khi đường sá thuận tiện, thương lái có thể đến tận nơi thu mua thì giá cả sẽ tăng lên, người dân không phải mất công chở từng gùi vỏ quế ra trung tâm để bán.
“Cây quế vốn là loại cây bản địa ở vùng này, trước đây chúng tôi chỉ trồng để giữ đất, giữ rừng chứ chưa ít ai nghĩ sẽ có thu nhập. Nhưng bây giờ có con đường tạm nên bà con đưa xuống xã, xuống huyện bán được. Mấy năm nay, giá vỏ quế lên 70.000 đồng/kg nên 1ha rừng quế nhà tôi mỗi năm bán được tầm trên dưới 15 triệu đồng, có thêm chút ít để trang trải cuộc sống và phòng lúc ốm đau, bệnh tật”, già Nguyễn Xuân Bốn chia sẻ.
Già Bốn cũng bao như nhiều người dân khác trong ngôi làng này, sau những năm tháng sống trong khó khăn, thiếu thốn thì khi thấy những đổi thay dù nhỏ ai cũng vui, cũng mừng. Nhưng bao nhiêu đó làm sao có thể đủ để so với sự phát triển mỗi lúc một nhanh của xã hội bên ngoài. Nếu không có sự hỗ trợ từ bên ngoài thì biết đến bao giờ vùng đất này mới thay được “tấm áo” cũ vốn đã mặc quá lâu.