| Hotline: 0983.970.780

Thêm 3 giống dâu tằm cao sản

Thứ Ba 19/01/2010 , 10:26 (GMT+7)

3 giống dâu lai mới được Trung tâm Nghiên cứu dâu tằm tơ chọn tạo thành công cho năng suất cao, chất lượng tốt, đáp ứng nhu cầu nuôi tằm của các địa phương.

Tại hội nghị “Giới thiệu một số tiến bộ kỹ thuật về rau, hoa, cây ăn quả và dâu tằm tơ" của Viện Nghiên cứu Rau quả mới được tổ chức gần đây, Trung tâm Nghiên cứu dâu tằm tơ trực thuộc Viện đưa ra giới thiệu và khuyến cáo bà con nông dân các tỉnh phía Bắc gieo trồng 3 giống dâu lai mới được Trung tâm chọn tạo thành công cho năng suất cao, chất lượng tốt, đáp ứng nhu cầu nuôi tằm của các địa phương.

1. Giống dâu lai F1 VH13

Đây là giống dâu lai tam bội (3n), được tạo ra do lai hữu tính giữa giống dâu nhị bội 1A (2n) và giống dâu tứ bội ĐB 86 (4n). Giống được Bộ Nông nghiệp-PTNT công nhận là giống quốc gia năm 2006 và cho phép phát triển ở các tỉnh phía Bắc và miền Trung.

VH13 được nhân giống bằng phương pháp hữu tính (trồng bằng hạt). Cây cao trung bình 2,4m, thân màu vàng nhạt, sinh trưởng khỏe, nhiều cành, tán gọn, lá màu xanh, đậm to, dày, khả năng giữ nước tốt nên tươi lâu. Năng suất lá ổn định, thâm canh tốt có thể đạt 35-40 tấn/ha, cho nhiều lá vào vụ thu, thích hợp cho nuôi tằm kén trắng cho hiệu quả kinh tế cao. Chất lượng lá VH13 khá tốt, lá dày, hàm lượng protein trong lá đạt 22-24%, thích hợp để nuôi tằm con và tằm lớn. VH13 có khả năng chống chịu các bệnh bạc thau, gỉ sắt, vi khuẩn; chịu hạn, chịu úng tốt.

VH13 thích hợp với đất vùng bãi ven sông, ven biển, đất đồi gò ở các tỉnh miền Bắc và miền Trung. Dâu VH13 có thể trồng quanh năm nếu chủ động được giống và nước tưới nhưng tốt nhất nên trồng từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Trồng với mật độ 6-7 vạn cây/ha; khoảng cách hàng cách hàng 1,2-1,5 m, cây cách cây 20-30 cm, mỗi hốc trồng 2 cây. Bón 20-25 tấn/ha phân hữu cơ + 2.000-2.500 kg/ha phân NPK Văn Điển loại 16,5-7-7,5.

2. Giống dâu lai F1 VH15

VH15 là giống dâu lai tam bội (3n), được lai tạo hữu tính giữa giống dâu nhị bội K10 (2n) và giống dâu tứ bội ĐB 86 (4n). Giống được Bộ Nông nghiệp-PTNT công nhận là giống sản xuất thử ở vùng núi phía Bắc năm 2009.

VH15 được nhân giống bằng phương pháp hữu tính (trồng bằng hạt). Cây cao trung bình 2,6m, thân màu xanh nhạt, sinh trưởng khỏe, nhiều cành, tán gọn, lá to, dày, màu xanh đậm, khả năng giữ nước tốt nên tươi lâu. Năng suất lá ổn định, thâm canh tốt ở các vùng sinh thái miền núi phía Bắc có thể đạt 25-30 tấn lá/ha; cho nhiều lá ở vụ xuân. Chất lượng lá tốt, lá dày, hàm lượng protein trong lá đạt 22-25%, thích hợp cho nuôi tằm con và tằm lớn. VH15 có khả năng chống chịu với bệnh bạc thau, gỉ sắt, vi khuẩn khá hơn các giống dâu địa phương và các giống nhập nội của Trung Quốc; khả năng chống chịu với điều kiện ngoại cảnh bất thuận như nóng, hạn, úng, rét khá tốt.

VH15 thích hợp với vùng đất đồi gò, đất bãi trung du, miền núi các tỉnh phía Bắc. Có thể trồng quanh năm nếu chủ động được giống và nguồn nước tưới nhưng tốt nhất nên trồng từ tháng 12 đến hết tháng 3 năm sau. Mật độ trồng thích hợp 5-6 vạn cây/ha; nên trồng với khoảng cách: hàng cách nhau 1,2-1,3 m; cây cách nhau 20-30 cm.

3. Giống dâu lai F1 VH17

Đây là giống dâu lai tam bội (3n ), được lai hữu tính giữa giống dâu nhị bội K9 (2n) và giống tứ bộ ĐB86 (4n). Giống được Bộ Nông nghiệp-PTNT công nhận là giống sản xuất thử cho vùng ĐBSH năm 2009.

VH17 nhân giống bằng phương pháp hữu tính (trồng bằng hạt). Cây cao trung bình 2,6 m, thân vàng nhạt, sinh trưởng khỏe, nhiều cành, tán gọn, lá màu xanh, to, dày, khả năng giữ nước tốt nên tươi lâu. Năng suất ổn định với trên 35 tấn lá/ha; cho nhiều lá ở vụ xuân, thuận lợi cho nuôi tằm kén trắng cho năng suất, chất lượng kén cao. Cũng như VH15, giống VH17 cho chất lượng lá tốt, thích hợp cho nuôi tằm con và tằm lớn. VH17 chống chịu bệnh bạc thau, gỉ sắt, vi khuẩn khá hơn các giống nhập nội của Trung quốc; khả năng chống chịu với điều kiện ngoại cảnh bất thuận như nóng, hạn, úng, rét khá tốt.

VH17 phát triển tốt trên các vùng đất bãi ven sông các tỉnh vùng ĐBSH. Có thể trồng quanh năm, tốt nhất từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Do có bộ tán gọn nên có thể trồng dày 7-8 vận cây/ha (hàng cách nhau 1,2-1,5 m, cây cách nhau 20-30 cm, mỗi hốc trồng 2 cây).

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm