| Hotline: 0983.970.780

Tỉ mẩn chuyện khảo nghiệm NPK-S Lâm Thao hàm lượng cao ở miền núi

Thứ Năm 14/05/2020 , 07:01 (GMT+7)

Ở mỗi địa điểm khảo nghiệm, các nhà khoa học thực hiện 4 công thức bón để chọn ra cái tối ưu nhất. 

16-15-01_cm_cnh
Chăm sóc cam (Ảnh minh họa).

Tạo công thức chăm sóc riêng cho mỗi vùng đất, mỗi khí hậu, mỗi loại cây trồng nhằm tối ưu hóa hiệu quả kinh tế và môi trường là mục tiêu của Trung tâm Nghiên cứu Phân bón và Dinh dưỡng cây trồng thuộc Viện Thổ nhưỡng Nông hoá khi kết hợp với Công ty CP Supe Phốt phát và Hóa chất Lâm Thao để khảo nghiệm những loại phân bón…

Cây ăn quả có múi nói chung và cam nói riêng là một trong những sản vật có tiếng ở Yên Bái và nhất là Tuyên Quang. Khí hậu Yên Bái có 2 mùa rõ rệt gồm mùa lạnh (từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau) và mùa nóng (từ tháng 4 đến tháng 10). Khí hậu Tuyên Quang cũng tương tự như thế.

Cùng là đất đỏ vàng nhưng ở Yên Bái có tính chất chua, hàm lượng chất hữu cơ, đạm, kali tổng số đều nghèo, lân tổng số rất nghèo, lân dễ tiêu trung bình, kali dễ tiêu nghèo còn ở Tuyên Quang tuy cũng chua nhưng hàm lượng hữu cơ, đạm từ trung bình đến giàu, lân tổng số, lân dễ tiêu giàu, kali tổng số nghèo, kali dễ tiêu giàu.

Ở mỗi địa điểm khảo nghiệm, các nhà khoa học thực hiện 4 công thức bón để chọn ra cái tối ưu nhất. Xác định liều lượng và tỷ lệ N, P2O5, K2O thích hợp nhất của các công thức bón phân NPK-S Lâm Thao: NPK-S Lâm Thao 16-16-8+6S, NPK-S Lâm Thao 16-8-16+4S, NPK-S Lâm Thao 13-13-13+4S cho cây cam. Kết quả là cơ sở khoa học để xây dựng quy trình bón các loại phân NPK-S Lâm Thao cho cây cam.

Đối với cam V2 loại 5 năm tuổi tại Hồng Ca, Trấn Yên, Yên Bái, công thức 3 và 4 có số quả nhiều hơn đối chứng 30 - 32,7 quả/cây, đạt 300 - 303 quả/cây, trong khi đối chứng chỉ đạt 270,3 quả/cây. Tỷ lệ rụng quả ở công thức 3 và 4 là 9,0 - 10,0%, tương đương với đối chứng là 9,7%.

Công thức 4 cho năng suất cam cao nhất, đạt 34,8 tấn/ha, cao hơn đối chứng 4,1 tấn/ha, tương ứng tăng 13,4%; công thức 3 đạt 34,4 tấn/ha, cao hơn đối chứng 3,7 tấn/ha, tương ứng tăng 12,1%.

Công thức 4 cho lợi nhuận cao nhất đạt 627.173.750 đ/ha, so với đối chứng tăng 76.867.750 đ/ha, tương ứng tăng 14,0%; công thức 3 đạt 617.358.450 đ/ha, tăng 67.052.450 đ/ha, tương ứng tăng 12,2%.

Còn về chất lượng, so với đối chứng thì công thức 4 có hàm lượng chất khô, đường tổng số, độ brix, axit hữu cơ có xu hướng cao hơn còn vitamin C và Nitrat có xu hướng thấp hơn. Khả năng bảo quản quả cam của các công thức thí nghiệm là tương đương, sau 20 ngày bảo quản tỷ lệ quả hỏng đã lên tới 24 - 26%, trung bình 25%.

Đối với cam sành loại 8 năm tuổi tại Minh An, Văn Chấn, Yên Bái, công thức 3 và 4 có số quả nhiều hơn đối chứng 16,0 - 19,5 quả/cây, đạt 189,5 - 193 quả/cây, trong khi đối chứng chỉ đạt 173,5 quả/cây. Tỷ lệ rụng quả của công thức 3 và 4 là 8,9 - 9,2%, tương đương với đối chứng là 8,9%. Công thức 4 cho năng suất cam cao nhất, đạt 21,6 tấn/ha, cao hơn đối chứng 2,5 tấn/ha, tương ứng tăng 13,1%; công thức 3 đạt 21,6 tấn/ha, cao hơn đối chứng 2,3 tấn/ha, tương ứng tăng 12,0%.

Công thức 4 cũng cho lợi nhuận cao nhất, đạt 251.337.500 đ/ha, tăng so với đối chứng 26.345.500 đ/ha, tương ứng tăng 11,7%; công thức 3 đạt 250.514.000 đ/ha, tăng 25.522.000 đ/ha, tương ứng tăng 11,3%; So với đối chứng thì công thức này có hàm lượng chất khô, đường tổng số và độ Brix có xu hướng cao hơn, Vitamin C và Nitrat có xu hướng thấp hơn, Axit hữu cơ tương đương. Khả năng bảo quản quả cam của các công thức là tương đương, sau bảo quản 20 ngày tỷ lệ quả hỏng đã lên tới 28 - 30%, trung bình chiếm 30%.

Đối với cam sành, 8 năm tuổi tại tại Thái Sơn, Hàm Yên, Tuyên Quang, công thức 3 và 4 có số quả nhiều hơn đối chứng 16,8 - 19,5 quả/cây, đạt 181,8 - 184,5 quả/cây, trong khi đối chứng chỉ đạt 165,0 quả/cây. Tỷ lệ rụng quả của công thức 3 và 4 là 9,5 - 10,0%, tương đương với đối chứng là 10,7%.

Công thức 4 cho năng suất cam cao nhất, đạt 17,5 tấn/ha, cao hơn đối chứng 1,9 tấn/ha, tăng 12,2%, cho lợi nhuận cao nhất đạt 192.337.500 đ/ha, tăng so với đối chứng 18.845.500 đ/ha, tương ứng tăng 10,9%; công thức 3 đạt 188.514.000 đ/ha, tăng hơn đối chứng 15.022.000 đ/ha, tướng ứng tăng 8,7%.

So với đối chứng thì công thức này có hàm lượng Vitamin C, đường tổng số, cao hơn, còn chất khô, độ Brix, Axit hữu cơ và Nitrat tương đương. Khả năng bảo quản quả cam của các công thức tương đương như nhau sau 20 ngày bảo quản tỷ lệ quả hỏng đã lên tới 28 - 30%, trung bình chiếm 30%.

Đối với cam V2 loại 10 năm tuổi tại Tứ Quận, Yên Sơn, Tuyên Quang, công thức 3 và 4 có số quả nhiều hơn đối chứng 26,3 - 29,8 quả/cây, đạt 272,8 - 276,3 quả/cây, trong khi đối chứng chỉ đạt 246,5 quả/cây. Tỷ lệ rụng quả của công thức 3 và 4 là 10,1 - 11,0%, tương đương với đối chứng là 10,4%.

Công thức 4 cho năng suất cam cao nhất, đạt 24,7 tấn/ha, cao hơn đối chứng 2,6 tấn/ha, tăng 11,8%. Đây cũng là công thức cho lợi nhuận cao nhất, đạt 422.042.850 đ/ha, tăng so với đối chứng 46.991.100 đ/ha, tương ứng tăng 12,5%; công thức 3 đạt 417.985.000 đ/ha, tăng hơn đối chứng 42.933.250 đ/ha, tương ứng tăng 11,4%.

So với công thức 3 thì công thức 4 có hàm lượng đường tổng số, Nitrat cao hơn, còn chất khô, độ Brix, Axit hữu cơ tương đương và Vitamin C thấp hơn. Khả năng bảo quản quả cam của các công thức tương đương như nhau, sau 20 ngày bảo quản tỷ lệ quả hỏng đã lên tới 24 - 26%, trung bình chiếm 25%.

Khuyến cáo của các nhà khoa học

Đối với cây cam V2 loại 5 năm tuổi tại Hồng Ca, Trấn Yên, Yên Bái khuyến cáo lượng bón kết hợp 800 kg NPK-S Lâm Thao 16-16-8+6S, 985 kg NPK-S Lâm Thao 13-13-13+4S, 900 kg NPK-S Lâm Thao 16-8-16+4S hoặc lượng bón kết hợp 800 kg NPK-S Lâm Thao 16-16-8+6S, 2095 kg NPK-S Lâm Thao 13-13-13+4S.

Đối với cam sành 8 năm tuổi tại Minh An, Văn Chấn, Yên Bái và Thái Sơn, Hàm Yên, Tuyên Quang khuyến cáo sử dụng bón kết hợp 1.025 kg NPK-S Lâm Thao 16-16-8+6S + 1.230 kg NPK-S Lâm Thao 13-13-13+4S + 1.100 kg NPK-S Lâm Thao 16-8-16+4S hoặc bón kết hợp 1.025kg NPK-S Lâm Thao 16-16-8+6S + 2.585 kg NPK-S Lâm Thao 13-13-13+4S.

Đối với cam V2 loại 10 năm tuổi tại Tứ Quận, Yên Sơn, Tuyên Quang khuyến cáo sử dụng bón kết hợp 1.200kg NPK-S Lâm Thao 16-16-8+6S + 1.477 kg NPK-S Lâm Thao 13-13-13+4S + 1.350 kg NPK-S Lâm Thao 16-8-16+4S hoặc bón kết hợp 1.200kg NPK-S Lâm Thao 16-16-8+6S + 3.140 kg NPK-S Lâm Thao 13-13-13+4S.

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm