| Hotline: 0983.970.780

Ứng dụng canh tác tiến tiến sản xuất điều xuất khẩu

Thứ Năm 16/12/2021 , 08:00 (GMT+7)

BÌNH PHƯỚC Nhờ ứng dụng đồng bộ các giải pháp canh tác tiên tiến, các vùng điều trong dự án tại Bình Phước đã được thâm canh, cải thiện rõ rệt về năng suất, chất lượng.

Nâng chất lượng vùng nguyên liệu điều xuất khẩu

Hội đồng Khoa học công nghệ (KH-CN) tư vấn, đánh giá nghiệm thu nhiệm vụ KH-CN cấp Quốc gia vừa tiến hành đánh giá dự án “Ứng dụng đồng bộ các giải pháp canh tác tiên tiến xây dựng vùng nguyên liệu điều theo chuỗi giá trị, đảm bảo tiêu chuẩn xuất khẩu”.

Dự án 'Ứng dụng đồng bộ các giải pháp canh tác tiên tiến xây dựng vùng nguyên liệu điều theo chuỗi giá trị, đảm bảo tiêu chuẩn xuất khẩu' được thực hiện  tại xã Đắk Nhau và Bom Bo (Bù Đăng, Bình Phước). Ảnh: Trần Trung.

Dự án “Ứng dụng đồng bộ các giải pháp canh tác tiên tiến xây dựng vùng nguyên liệu điều theo chuỗi giá trị, đảm bảo tiêu chuẩn xuất khẩu” được thực hiện  tại xã Đắk Nhau và Bom Bo (Bù Đăng, Bình Phước). Ảnh: Trần Trung.

Dự án thuộc chương trình KH-CN phục vụ xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020 do Bộ NN-PTNT làm chủ quản. Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển cây điều (Viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam) thực hiện.

Theo đó, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển cây điều đã phối hợp với Trung tâm Dịch vụ Nông nghiệp tỉnh Bình Phước triển khai thực hiện dự án tại xã Đắk Nhau và Bom Bo (Bù Đăng, Bình Phước) từ 2019 - 2021 với sự tham gia của nông dân, HTX, doanh nghiệp thu mua và chế biến điều. Vườn điều sử dụng trong dự án là vườn điều giống ghép PN1, AB 05-08 và vườn điều thực sinh trong thời kỳ kinh doanh.

TS Trần Công Khanh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển cây điều (chủ nhiệm dự án) cho biết: Mục tiêu của dự án là xây dựng được mô hình ứng dụng đồng bộ các giải pháp canh tác tiên tiến trong sản xuất điều thâm canh, liên kết theo chuỗi giá trị, tạo ra sản phẩm đảm bảo tiêu chuẩn xuất khẩu và góp phần nâng cao thu nhập cho các hộ dân tham gia thực hiện dự án.

Trên cơ sở đó, dự án tập trung xây dựng 1 mô hình ứng dụng đồng bộ các giải pháp canh tác tiên tiến trong sản xuất điều thâm canh, quy mô 20ha tại Bình Phước (giảm chi phí sản xuất ít nhất 15%, năng suất điều tăng ít nhất 15%, chất lượng đảm bảo tiêu chuẩn xuất khẩu, giá trị kinh tế tăng ít nhất 30% so với các giải pháp canh tác truyền thống).

Xây dựng 1 mô hình liên kết sản xuất điều đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, theo chuỗi giá trị có sự tham gia giữa doanh nghiệp và người dân trồng điều, đảm bảo hài hòa lợi ích của người dân và doanh nghiệp, cơ chế đồng thuận và cơ sở pháp lý vững chắc, quy mô 30 ha tại Bình Phước.

Hun khói kiểm soát bọ xít muỗi hạt điều. Ảnh: Trần Trung.

Hun khói kiểm soát bọ xít muỗi hạt điều. Ảnh: Trần Trung.

Hoàn thiện quy trình tiên tiến (tổ chức sản xuất và khoa học kỹ thuật) để phát triển các vùng sản xuất bền vững điều nguyên liệu theo chuỗi giá trị, đảm bảo tiêu chuẩn xuất khẩu, được Bộ NN-PTNT hoặc Sở NN-PTNT tỉnh Bình Phước công nhận.

Tổ chức 3 lớp tập huấn quy mô 50 người/khoá về ứng dụng giải pháp đồng bộ tiên tiến (tổ chức sản xuất và khoa học kỹ thuật) phát triển các vùng sản xuất bền vững,vùng điều nguyên liệu theo chuỗi giá trị, đảm bảo tiêu chuẩn xuất khẩu được UBND tỉnh Bình Phước chấp thuận.

Hiệu quả trên nhiều phương diện

Sau gần 3 năm triển khai, vừa qua, Hội đồng KH-CN tư vấn, đánh giá nghiệm thu nhiệm vụ KH-CN cấp Quốc gia (Hội đồng đánh giá) đã tiến hành đánh giá những kết quả, hiệu quả, tác động của dự án khi triển khai trên thực tế.

PGS.TS Nguyễn Văn Bộ, Chủ tịch Hội đồng đã đánh giá cao các hoạt động của dự án, từ điều tra đến xây dựng mô hình nghiên cứu, hoàn thiện quy trình, đào tạo, hội thảo... Dự án đã hoàn thành đúng và đầy đủ nội dung, khối lượng, tiến độ và kinh phí đã phê duyệt.

Theo đó, dự án đã đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu và thực trạng về sản xuất điều tại vùng dự án. Từ đó, xác định được những thuận lợi, khó khăn, mong đợi của người dân trồng điều và chính quyền địa phương.

Tập huấn kỹ thuật thâm canh điều cho nông dân tại xã Đắk Nhau (Bù Đăng, Bình Phước). Ảnh: Trần Trung.

Tập huấn kỹ thuật thâm canh điều cho nông dân tại xã Đắk Nhau (Bù Đăng, Bình Phước). Ảnh: Trần Trung.

Về hiệu quả kinh tế, mô hình ứng dụng đồng bộ các giải pháp canh tác tiên tiến tổng hợp trong sản xuất điều thâm canh (tỉa cành tạo tán, bón phân cân đối, kiểm soát sâu bệnh hại điều) giúp giảm chi phí sản xuất 15,4% so với sản xuất đại trà, góp phần tăng năng suất hạt điều lên 17,3%. Hiệu quả kinh tế của mô hình đạt 31,9 triệu đồng/ha/năm (sản xuất đại là 20,3 triệu đồng/ha/năm), tăng thêm 13,8 triệu đồng/ha/năm (tương ứng 72,3%).

Mô hình liên kết sản xuất điều nguyên liệu đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, theo chuỗi giá trị có sự tham gia liên kết giữa doanh nghiệp và người dân trồng điều, đã xây dựng được cơ chế đồng thuận, cơ sở pháp lý vững chắc, đảm bảo hài hòa lợi ích của các bên tham gia, nhờ đó thu nhập tăng thêm 14,6 triệu đồng/ha (tương ứng 46,5%).

Quy trình canh tác điều tiên tiến trong phát triển các vùng sản xuất điều bền vững theo chuỗi giá trị, đảm bảo tiêu chuẩn xuất khẩu của dự án đã được Sở KH-CN tỉnh Bình Phước tiếp nhận và đưa vào ứng dụng cho sản xuất điều trên địa bàn tỉnh.

Về hiệu quả xã hội, dự án đã góp phần giải quyết các vấn đề đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu cho hạt điều nguyên liệu, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Khi áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, sản phẩm của người dân được thị trường đón nhận, khả năng mở rộng thị trường lớn.

Thông qua các lớp tập huấn, năng lực, kiến thức và kỹ năng của người sản xuất điều được nâng cao, đáp ứng năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Mô hình liên kết đã giúp nông dân có thêm kiến thức kết nối với các doanh nghiệp trong bao tiêu sản phẩm, ổn định đầu ra.

Kiểm tra, đánh giá mô hình tại Bom Bo (Bù Đăng, Bình Phước). Ảnh: Trần Trung.

Kiểm tra, đánh giá mô hình tại Bom Bo (Bù Đăng, Bình Phước). Ảnh: Trần Trung.

Về hiệu quả môi trường, dự án giúp người dân thay đổi phương thức sản xuất theo hướng thân thiện với môi trường, giảm thiểu sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, phân bón hóa học, giảm ô nhiễm nguồn nước…

Đối với xây dựng nông thôn mới, dự án đã tác động đến phát triển sản xuất, việc làm, thu nhập, đời sống người dân. Kết quả của dự án góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống cho các hộ nông dân tham gia, hỗ trợ tăng cường nhận thức, kinh nghiệm trong sản xuất điều có áp dụng đồng bộ kỹ thuật thâm canh và theo hướng hữu cơ an toàn.

Qua đó, tăng giá trị sản phẩm, quản lý hiệu quả chi phí đầu vào và cải thiện các mối liên kết thị trường. Các hộ dân thực hiện dự án có điều kiện học hỏi, tiếp cận những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới, áp dụng vào thực tế sản xuất.

Các doanh nghiệp tham gia dự án cải thiện được chất lượng sản phẩm điều, góp phần tăng lợi nhuận, tạo liên kết lâu dài với nông dân ở địa phương.

Bên cạnh đó, dự án giúp nông dân vùng sâu, vùng xa, người dân tộc thiểu số được đào tạo tập huấn, tham gia thực hiện. Đây là nguồn lực quan trọng thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần xây dựng nông thôn mới ở các địa phương tham gia thực hiện dự án nói riêng và các vùng có điều kiện tương tự nói chung. Những tác động tích cực sẽ góp phần ổn định xã hội, xoá đói giảm nghèo bền vững tại địa phương…

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm