| Hotline: 0983.970.780

Vướng mắc chi trả dịch vụ môi trường rừng

Thứ Tư 08/07/2015 , 06:09 (GMT+7)

Phú Yên có 70.000 ha rừng của các lưu vực có cung ứng dịch vụ môi trường rừng (DVMTR). 

Song nhận thức về chi trả DVMTR của các tổ chức, cá nhân chưa thông suốt; tiến độ giải ngân chậm.

Theo ông Mai Tấn Lên, GĐ Quỹ Bảo vệ & phát triển rừng Phú Yên, hiện kinh phí hoạt động của quỹ còn nhiều khó khăn, chủ yếu sử dụng 10% trên tổng nguồn thu ủy thác tiền DVMTR được điều phối từ Quỹ Bảo vệ & phát triển rừng VN (VNFF) và thu nội tỉnh.

Trong khi đó, địa bàn hoạt động của quỹ thực hiện chính sách chi trả tiền thu ủy thác DVMTR cho các đối tượng chủ rừng chủ yếu là địa bàn vùng sâu, vùng xa thuộc ba huyện miền núi Đồng Xuân, Sơn Hoà, Sông Hinh, bao gồm 6 BQL rừng phòng hộ, đặc dụng và doanh nghiệp; 16 xã, thị trấn được Nhà nước giao trách nhiệm quản lý rừng và hơn 1.000 chủ rừng là các hộ gia đình cá nhân.

Việc chi trả tiền DVMTR từ quỹ tỉnh đến các đối tượng chủ rừng hết sức khó khăn. Để trả đúng, trả đủ bảo đảm 100% số tiền DVMTR phải đến tay người dân và các chủ rừng, hàng năm quỹ phải rà soát, cập nhật biến động (tăng/giảm) hiện trạng rừng hơn 120.000 ha, trong đó 70.000 ha là diện tích có rừng của các lưu vực có cung ứng DVMTR.

Ngoài ra, việc chi trả DVMTR bình quân theo lưu vực của từng thủy điện liên tỉnh cho các chủ rừng cung ứng DVMTR đối với các thủy điện bậc thang có sự chênh lệch lớn về đơn giá, nhất là diện tích rừng có cung ứng DVMTR ở vùng hạ du.

UBND tỉnh Phú Yên vừa phê duyệt kinh phí chi trả DVMTR năm 2014 với tổng số tiền hơn 7 tỷ đồng. Số tiền trên do Quỹ Bảo vệ & phát triển rừng VN điều phối sau khi thu DVMTR từ 3 NM thủy điện trên địa bàn tỉnh và Cty TNHH MTV Cấp thoát nước Phú Yên. Đối tượng được chi trả là chủ rừng, các BQL rừng phòng hộ, UBND 16 xã...

Cụ thể, trong hệ thống thủy điện bậc thang trên thượng nguồn sông Ba có nhiều nhà máy thủy điện. Trong đó có NM thủy điện An Khê - Ka Nak công suất 173 MW, thay vì sau SX thủy điện phải trả nước lại cho sông Ba, nhưng lại "chuyển nguồn" đổ ra Sông Kôn, chảy về hạ lưu thuộc tỉnh Bình Định.

Mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của quỹ chưa rõ ràng; hệ thống tổ chức, chế độ phụ cấp, ngạch, bậc công chức, viên chức chưa có văn bản hướng dẫn để thực hiện thống nhất trên toàn quốc.

“Việc chậm trễ uỷ thác tiền DVMTR hàng năm do nhiều nguyên nhân, làm ảnh hưởng lớn đến công tác chủ động tổ chức triển khai kế hoạch thu, chi trả tiền DVMTR hàng năm. Công tác tuyên truyền về chủ trương, chính sách chưa có sức lan toả trong cộng đồng do kinh phí phục vụ cho công tác truyên truyền lệ thuộc vào quỹ trích lập từ nguồn thu uỷ thác quá thấp", ông Lên nói.

Theo Quỹ Bảo vệ & phát triển rừng Phú Yên, công tác giải ngân tiền DVMTR năm 2011, 2012 đến nay chưa được thực hiện, do đang lấy ý kiến thống nhất của các sở, ban ngành theo chỉ đạo của tỉnh. Chi trả DVMTR cho các chủ rừng còn quá thấp, khiến họ chưa gắn bó với sự nghiệp bảo vệ rừng.

Chi trả DVMTR còn bất cập, đơn giá chi trả bình quân trên 1 ha rừng có sự chênh lệch quá lớn giữa các lưu vực trên địa bàn, khiến người dân so bì quyền lợi. Cụ thể như tiền chi trả cho các chủ rừng của lưu vực NM thủy điện sông Ba Hạ khoảng 28.000 đồng/ha/năm; lưu vực NM thủy điện sông Hinh 126.000 đồng/ha/năm, quá thấp so với mặt bằng chung cả nước về Kế hoạch Bảo vệ & phát triển rừng (200.000 đồng/ha/năm).

Trong khi đó, việc nộp tiền trồng rừng thay thế vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể về trách nhiệm quản lý của quỹ, tiến trình phân bổ kế hoạch, kinh phí quản lý, điều hành...

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm