| Hotline: 0983.970.780

Cải thiện năng suất đu đủ bằng chế phẩm EM

Thứ Sáu 13/09/2013 , 10:22 (GMT+7)

Phun chế phẩm EM cho cây đu đủ định kỳ 2 tuần/lần ngay sau trồng 1 tháng cho tới trước khi thu hoạch quả 1 tháng sẽ làm tăng năng suất, chất lượng quả...

Sở KH-CN Vĩnh Phúc và Khoa Nông học, Trường ĐH Nông nghiệp Hà Nội vừa nghiên cứu thành công và khuyến cáo nông dân trồng đu đủ áp dụng quy trình phun chế phẩm vi sinh vật hữu hiệu EM nhằm làm tăng năng suất, chất lượng quả.

Phun chế phẩm EM cho cây đu đủ định kỳ 2 tuần/lần ngay sau trồng 1 tháng cho tới trước khi thu hoạch quả 1 tháng sẽ làm tăng năng suất, chất lượng quả, đặc biệt làm tăng thêm mức lãi ròng từ 29,14 - 58,46 triệu đồng/ha so với đối chứng không phun.

Thạc sỹ Nguyễn Thị Kim Liên, Chủ nhiệm đề tài cho biết, đề tài “Nghiên cứu ảnh hưởng của việc phun tới sinh trưởng, năng suất và chất lượng đu đủ” được thực hiện trên vườn thực nghiệm của Cty TNHH Phát triển nông nghiệp CNC Sơn Thái tại xã Vân Hòa, Ba Vì, Hà Nội (2009-2010) và Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KHCN Vĩnh Phúc (2011-2012) trên 3 giống đu đủ: Nông Hữu1, Hồng Phi 768 (nhập nội từ Đài Loan) và giống Lòng Vàng của địa phương.

Chế phẩm vi sinh vật hữu hiệu (Effective Microorganis) EM thứ cấp được pha loãng với các nồng độ khác nhau (1/500, 1/1.000 và 1.500), phun lên cây định kỳ 2 tuần/lần, bắt đầu từ giai đoạn sau trồng 1 tháng, khi cây đã ổn định.

Kết quả theo dõi tại các điểm thí nghiệm cho thấy:

- Về sinh trưởng: Các cây được xử lý EM làm tăng khả năng quang hợp, cây sinh trưởng nhanh hơn, phát triển khỏe hơn, góp phần làm tăng năng suất cao hơn so với đối chứng không phun EM.

- Về năng suất thu hoạch: Ở nồng độ phun 1/1.000, 2 giống Nông Hữu 1 và Hồng Phi 768 đều tăng số quả trên cây, tăng khối lượng quả bình quân và năng suất thực thu cao nhất so với đối chứng không phun (giống Nông Hữu 1 thực thu 73/60,84 tấn/ha, tăng 12,16 tấn/ha; giống Hồng Phi 768 thực thu 67,62/59,38 tấn/ha, tăng 3,34 tấn; giống Lòng Vàng thực thu 64,87/49,22 tấn/ha, tăng 15,65 tấn ).

- Về chất lượng quả: Lượng đường tổng số và hàm lượng chất khô trên quả của 3 giống đu đủ nghiên cứu ở tất cả các nồng độ EM đều cho hàm lượng cao hơn so với đối chứng không phun, màu trái cũng đẹp hơn, ăn ngọt, ngon hơn đối chứng.

- Về hiệu quả kinh tế: Xử lý EM trên cả 3 giống đu đủ thí nghiệm làm lãi ròng tăng thêm. Mức lãi ròng tăng thêm cao nhất ở nồng độ 1/500 đối với giống Lòng Vàng (58,46 triệu đồng/ha), tiếp đến là giống Nông Hữu (44,82 triệu đồng/ha) và cuối cùng là giống Hồng Phi 768 (29,14 triệu đồng/ha) ở nồng độ phun 1/1.000.

- Về khả năng chống chịu bệnh: Ở tất cả các nồng độ xử lý EM trên cả 3 giống thí nghiệm đều có tác dụng làm giảm tỷ lệ nhiễm các bệnh thán thư, phấn trắng, khảm lá virus và đốm hình nhẫn.

Theo khuyến cáo của nhóm đề tài, để đạt được hiệu quả cao khi áp dụng quy trình xử lý chế phẩm EM trong SX đu đủ ở quy mô lớn, ngoài việc tuân thủ quy trình đã ban hành, bà con cần chú ý thêm một số điểm sau đây:

- Trồng đúng khoảng cách: Cây cách cây 2,5 m, hàng cách hàng 2,5 m để có mật độ 1.333 cây/ha.

- Thời gian xử lý EM thích hợp: Phun định kỳ 2 tuần/lần, ngay sau trồng 1 tháng, khi cây đã ổn định cho đến trước khi thu hoạch 1 tháng, tập trung vào các thời kỳ cây đang sinh trưởng, ra hoa, đậu quả và nuôi quả lớn. Ngừng phun chế phẩm EM trước khi thu quả 1 tháng.

- Với các giống đu đủ thuần bản địa, nên phun chế phẩm EM với nồng độ pha 1/500, với các giống đu đủ lai F1 nhập nội nên pha nồng độ 1/1.000.

- Phun chế phẩm EM vào lúc sáng sớm đã khô sương hoặc chiều mát, tránh lúc nắng gắt, trời mưa.

Xem thêm
Vùng cao nuôi con đặc sản: [Bài3] Độc đáo heo thảo mộc

Một con heo bình thường, nhưng khi được nuôi với quy trình đặc biệt thì nó trở thành đặc sản, đó là cách nuôi cho heo ăn thảo dược…

Cục trưởng Cục Thú y: ‘Không có lợi ích nhóm trong hoạt động kiểm dịch động vật’

Trước thông tin có lợi ích nhóm trong hoạt động kiểm dịch động vật, Cục trưởng Cục Thú y Nguyễn Văn Long đã đối thoại với các doanh nghiệp để làm rõ tin đồn này.

Lãi gấp đôi khi chuyển sang trồng rau thủy canh

HẢI PHÒNG Mạnh dạn chuyển sang ứng dụng công nghệ mới trong trồng rau, Hợp tác xã nông nghiệp Thái Sơn đã thu được lợi nhuận gấp đôi bình thường ngay trong vụ đầu tiên.

Bình luận mới nhất

Trong bài này, tác giả (sau đây xưng là Nattoi) để cập chủ yếu 03 vấn đề, trong đó chủ yếu tập trung cho giải quyết vấn đề số 1, hai vấn đề còn lại chỉ được nhắc đến: Một: Phương pháp thiết kế điều tiết lũ hiện hành chưa đưa thông số mực nước an toàn ở hạ du vào tính toán nên yêu cầu phòng chống lũ cho hạ du chưa được đảm bảo và không có tiêu chí để xác định hiệu quả vận hành giảm lũ. Vấn đề này đã được Nattoi giải quyết cả về mặt lý thuyết và thực hành (trình bày ở mục 3.4). Hai: Tiêu chí xác định MNCNTL, MNTNĐL không được công khai, minh bạch, làm cho việc kiến nghị điều chỉnh hạ thấp 2 mực nước đối với các hồ chứa thủy điện nhằm tăng dung tích trống phòng lũ là điều bất khả. Về vấn đề này (trình bày tại Mục 3.1), Nattoi chưa nêu cụ thể phương án giải quyết là để tập trung nội dung vào vấn đề số 1 như đã nêu, nhưng hướng giải quyết là đã có. Ba: Vấn đề bán con trâu mà tiếc sợi dây thừng: Thiết kế xây dựng đập, hồ chứa nước được tính toán an toàn ổn định lật, trượt đến mực nước lớn nhất thiết kế và kiểm tra với mực nước lớn nhất kiểm tra, cho phép giữ mực nước hồ không vượt quá mực nước lớn nhất kiểm tra nhưng lại chỉ cho phép sử dụng dung tích trống phòng lũ đến mực nước dâng bình thường là sự lãng phí ghê gớm trong đầu tư xây dựng và quản lý an toàn đập, hồ chứa nước. Hướng giải quyết vấn đề số 3 (trình bày tại Mục 3.2) vốn là tự nhiên đã có nhưng không được sử dụng vì không nghĩ đến giảm lũ cho hạ du.
+ xem thêm